Phác đồ gây mê trong mổ nội soi ổ bụng

Bs CKI Dương Văn Truyền - Khoa GMHS

I. Đại cương:

Gây mê phẫu thuật nội soi (PTNS) có 3 đặc thù chủ yếu:

  1. Do chính kỹ thuật nội soi và tư thế phẫu thuật.
  2. Do bơm hơi trong ổ phúc mạc (khí CO2). Những biến loạn tuần hoàn và hô hấp được tao ra do chính kỹ thuật và  do khí trong ổ phúc mạc tạo ra.
  3. Do chính kỹ thuật gây mê.

II. Gây mê hồi sức trong phẫu thuật nội soi:

1. Thăm khám trước khi gây mê:

-Khai thác tiền sữ bệnh lý.

-Khám lâm sàng  đánh giá tổng trạng chung của BN và dự đoán được các nguy cơ, phát hiện các bệnh lý kèm theo đặc biệt là tim mạch và hô hấp…

-Tầm soát những xét nghiệm cần thiết: công thức máu, chức năng đông máu, chức năng gan, thận, chụp phim phổi, ECG và siêu âm tim đối với những BN nguy cơ cao…

-Lựa chọn BN

noisoi1

2. Chuẩn bị BN và phương tiện gây mê hồi sức:

-Chuẩn bị BN thường qui.

-Chuẩn bị đầy đủ thuốc gây mê và hồi sức, trang thiết bị gây mê và phương tiện theo dõi…

-Các khuyến cáo theo dõi thường quy và nâng cao:

-Sonde tiểu: có thể đặt, cần thiết cho PTNS vùng bụng dưới, những trường hợp mổ kéo dài; sonde dạ dày cần thiết cho phẫu PTNS tầng trên ổ bụng, BN có dạ dày đầy...

3. Kỹ thuật gây mê:

3.1. Tiền mê:

3.2. Khởi mê và duy trì mê:          

-Lựa chọn gây mê toàn thân có đặt nội khí quản, hoặc Mask thanh quản Supreme, Proseal, thong khí kiểm soát.Phương pháp này tránh được nhiều biến chứng nguy hiểm bất lợi nhất khi bơm hơi vào ổ bụng, tránh giảm thông khí, tránh hội chứng trào ngược, ngoài ra thông khí có kiểm soát tránh được các rối loạn tuần hoàn và hô hấp, bệnh nhân được dung thuốc giãn cơ làm mềm bụng đảm bảo cho PTV thao tác dễ dàng.

-Khuyến cáo truyền dịch tinh thể 5-10ml/kg trước khi dẫn mê để tránh thay đổi huyết động khi bơm khí phúc mạc.Tuy nhiên việc truyền dịch phải cân nhắc ở BN có vấn đề về bệnh tim mạch.

-Các thuốc gây mê chọn lựa dựa trên dược động học của thuốc có thời gian bán hủy ngắn, ít tích lũy và ít có tác dụng phụ cũng như dựa vào thời gian phẫu thuật dự đoán, loại phẫu thuật, cơ địa bệnh nhân, tính chất của loại phẫu thuật…

a) Khởi mê:      

b) Duy trì mê: thuốc mê hơi Isoflurane 1,5-2 MAC, Sevorane 0,8-1,2 MAC và theo nồng độ khí mê hơi thì thở ra khi đạt trạng thái cân bằng pha khí và pha máu; thuốc giảm đau Fentanyl và giãn cơ…tùy theo diễn biến và thời gian phẫu thuật…

-Trong gây mê chú ý duy trì FiO2: 40-50% để tránh  xảy ra tình trạng thiếu Oxy.Nếu cần tăng thông khí, tăng f hơn tăng Vt để tránh gia tăng áp lực trong lồng ngực.

-Cần phải theo dõi lượng dịch vào ra trong phẫu thuật, nếu bilan giảm >1000 ml đề nghi ngưng phẫu thuật.

-Tư thế trong mổ: tư thế Trendelenbourg hoặc tư thế đầu cao 15

-Các điểm dễ dàng bị áp lực tì đè phải được chăm sóc cẩn thận nhằm tránh tổn  thương thần kinh, trong trường hợp mổ kéo dài ở tư thế đầu cao chân thấp thì đề phòng thuyên tắc TM sâu.

-Khi thực hiện bơm CO2 vào ổ bụng cần tuân thủ theo nguyên tắc sau:

-Theo dõi:

Theo dõi thường qui:

Theo dõi hô hấp:

             α)PETCO2 tăng vài mmHg trong vài phút rồi trở lại số liệu ban đầu có thể là chứng cứ tắc mạch tối thiểu do khí CO2.

             α)PETCO2 tăng đều đặn và bền vững thường do sự phân phối CO2 ngoài phúc mạc(trước, sau phúc mạc, dưới da và trung thất).

             α)PETCO2 giảm nhanh: có thể do giảm cung lượng tim hoặc giảm khối lượng máu về tim và cũng có thể là tắc động mạch phổi.

Theo dõi tình trạng tim mạch, huyết động trong mổ ở những BN có nguy cơ cao: HAĐM xâm nhập, CVP, catheter Swan-Ganz, lưu lượng tim...

3.3. Thoát mê và hồi tỉnh:

-Khi kết thúc phẫu thuật , xả hơi CO2 ra phải từ từ và hết hoàn toàn(vì BN đau đớn khi CO2 còn tụ dưới vòm hoành kích thích gây đau), đặt BN ngữa trên mặt phẳng ngang.

-Cần tính thời gian bơm hơi để biết khối lượng CO2 đã bơm vào ổ bụng và phải tính đến những biện pháp dự phòng khả năng rối loạn những chức năng gây nên bởi sự hấp thu CO2 lớn.

-Sự tháo hơi sẽ làm tăng tuần hoàn trở về dẫn tới tăng tiền gánh trong lúc sức cản của hệ thống mạch máu còn cao. Vì vậy có thể dẫn tới những đợt tăng HA, thêm vào đó là hiện tượng rét run do hạ thân nhiệt.Phải để BN tỉnh từ từ, yên tĩnh, ủ ấm cho BN, có thể tiếp tục thông khí nhân tạo khi PETCO2 còn quá cao.

-Rút NKQ khi BN tỉnh hẳn, hết tác dụng thuốc giãn cơ (kích thích chuỗi 4 của cơ khép ngón cái(TOF) đạt được tỷ lệ T4/T1≥90%), ổn định về mặt huyết động, thông khí và nhiệt độ cơ thể.

4. Giai đoạn sau mổ:

-Chú ý suy giảm hô hấp do tồn đọng thuốc mê, giãn cơ tồn dư, đào thải CO2 ra khỏi cơ thể còn chậm nên tất cả BN PTNS được hổ trợ thở oxy 2 giờ đầu sau mổ, theo dõi SpO2, PETCO2…

-Chú ý các biến đổi huyết động do khí phúc mạc còn tồn tại lâu sau đó.

-Giảm đau sau mổ:

-Nôn và buồn nôn: Nôn và buồn nôn sau mổ có thể xem là một vấn đề đặt biệt của phương pháp mổ nội soi.Bơm hơi khoang bụng, thao tác trên ruột và phẫu thuật vùng chậu là những nguyên nhân chính. Kỹ thuật gây mê cẩn thận, dùng thuốc chống nôn thường giúp giảm được tỷ lệ nôn và buồn nôn sau mổ.

 


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 19 Tháng 1 2015 07:32