Sàng lọc ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm Pap và HPV

Bs Nguyễn Thị Kiều Trinh- Khoa Phụ Sản

Mỗi năm, hơn 13.000 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư cổ tử cung ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh ung thư có thể phòng ngừa nhất hiện nay. Trong hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung có thể được ngăn ngừa thông qua phát hiện sớm và điều trị những thay đổi tế bào bất thường xảy ra ở cổ tử cung trong những trước khi ung thư cổ tử cung phát triển.

Bây giờ chúng ta biết rằng những thay đổi tế bào này là do virus gây u nhú ở người (papillomavirus) , thường được gọi là HPV . Thử nghiệm truyền thống để phát hiện sớm là thử nghiệm Pap. Đối với phụ nữ từ 30 tuổi trở lên, xét nghiệm HPV cũng được khuyến nghị. Xét nghiệm HPV có thể phát hiện loại HPV nguy cơ cao thường được tìm thấy trong ung thư cổ tử cung. (Xét nghiệm HPV đơn độc gần đây đã được phê duyệt để sử dụng làm sàng lọc ung thư cổ tử cung đầu tay cho phụ nữ từ 25 tuổi trở lên, sau khi có kết quả sẽ xét nghiệm Pap cho phụ nữ đó).

sanglock1

Các hướng dẫn hiện tại để sàng lọc ung thư cổ tử cung là:

Tùy thuộc vào kết quả xét nghiệm Pap và / hoặc HPV, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể đề nghị sàng lọc bổ sung hoặc làm các thử thuật, vì vậy một số phụ nữ có thể được kiểm tra thường xuyên hơn.

Sau 65 tuổi, phụ nữ trên 65 tuổi đã được sàng lọc trước và không có nguy cơ cao có thể ngừng sàng lọc. Phụ nữ đã phẫu thuật cắt tử cung (cắt bỏ cổ tử cung) cũng không cần phải sàng lọc, trừ khi họ có tiền sử tổn thương tiền ung thư trước đó.

Xét nghiệm Pap

Xét nghiệm Pap tìm thấy những thay đổi trong các tế bào của cổ tử cung. Khi một phụ nữ làm xét nghiệm Pap, cô ấy được khám phụ khoa bằng mỏ vịt để quan sát cổ tử cung và âm đạo. Khi nhìn thấy cổ tử cung, có thể dùng bàn chải / que để thu thập các tế bào, người khám sẽ nhẹ nhàng xoay thiết bị trong ống cổ tử cung và cổ ngoài tử cung (phần cổ tử cung tiếp xúc với âm đạo) để thu thập tế bào vảy và tuyến tế bào. Các tế bào được gửi đến phòng thí nghiệm để được chuẩn bị và đánh giá dưới kính hiển vi.

Xét nghiệm Pap phát hiện thay đổi bất thường hoặc tiền ung thư trong các tế bào trên cổ tử cung. Nếu kết quả xét nghiệm Pap cho thấy những thay đổi tế bào thường được gọi là loạn sản cổ tử cung. Các thuật ngữ phổ biến khác mà nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể sử dụng bao gồm:

Tất cả những thuật ngữ này có nghĩa là có những bất thường ở cổ tử cung. Những thay đổi tế bào này thường là do HPV. Có nhiều loại HPV có thể gây ra loạn sản cổ tử cung. Hầu hết các loại này được coi là loại có nguy cơ cao, có nghĩa là chúng có liên quan đến ung thư cổ tử cung.

Một người phụ nữ bị loạn sản cổ tử cung, điều đó không có nghĩa là cô ấy sẽ bị ung thư cổ tử cung. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của cô ấy có thể theo dõi chặt chẽ cổ tử cung của cô thường xuyên - và có thể điều trị - để ngăn chặn những thay đổi tế bào tiếp theo có thể trở thành ung thư theo thời gian nếu không được kiểm soát.

Xét nghiệm HPV

Các xét nghiệm HPV có thể phát hiện loại HPV nguy cơ cao hay gặp nhất trong ung thư cổ tử cung. Sự hiện diện của bất kỳ loại HPV ở phụ nữ trong nhiều năm có thể dẫn đến những thay đổi tế bào có thể cần được điều trị để ung thư cổ tử cung không xảy ra. Xét nghiệm HPV được thực hiện cùng lúc với xét nghiệm Pap bằng cách sử dụng một bàn chải mềm nhỏ để thu thập các tế bào cổ tử cung được gửi đến phòng thí nghiệm, hoặc mẫu xét nghiệm HPV có thể được lấy trực tiếp từ mẫu Pap.

Có hai loại HPV nguy cơ cao, HPV 16 và HPV 18, chịu trách nhiệm cho khoảng 70% bệnh ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới. Việc phát hiện một phụ nữ có các loại vi-rút này giúp các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiểu rõ hơn về nguy cơ phát triển ung thư cổ tử cung.

Gần đây, xét nghiệm HPV đã được phê duyệt để sử dụng cho phụ nữ từ 25 tuổi trở lên để sàng lọc ung thư cổ tử cung nguyên phát (có nghĩa là có thể thực hiện đơn độc mà không cần xét nghiệm Pap). Xét nghiệm Pap có thể chỉ định sau khi có kết quả định type HPV.

sanglock2

Chuẩn bị cho xét nghiệm Pap và / hoặc HPV

Có những bước bạn có thể thực hiện để đảm bảo bạn có được kết quả tốt nhất có thể từ xét nghiệm Pap hoặc HPV.

Kết quả xét nghiệm

Có nhiều hệ thống khác nhau mà các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sử dụng để phân loại xét nghiệm Pap.  Các hệ thống phân loại khác nhau và biểu hiện mức độ trầm trọng khác nhau bao gồm:

Hệ thống mô tả:  loạn sản nhẹ, loạn sản vừa, loạn sản nặng

Hệ thống CIN CIN là viết tắt của tân sản trong biểu mô cổ tử cung. Kết quả được phân loại là CIN 1, CIN 2, CIN 3

Hệ thống Bethesda:

Phụ nữ có kết quả xét nghiệm Pap bất thường thường được kiểm tra thêm về các vấn đề cổ tử cung. Điều này có thể liên quan đến việc soi cổ tử cung và sinh thiết, hoặc quay lại sau một vài tháng để xét nghiệm Pap khác. Nếu kết quả Pap là ASC, ASC-US, thì nên xét nghiệm HPV

Xử trí kết quả xét nghiệm Pap bất thường

Nếu xét nghiệm Pap cho thấy các tế bào bất thường, các xét nghiệm bổ sung có thể được thực hiện. Những xét nghiệm này bao gồm:

Soi cổ tử cung: Soi cổ tử cung là kiểm tra âm đạo và cổ tử cung bằng dụng cụ phóng đại được gọi là soi cổ tử cung.

Sinh thiết cổ tử cung: Trong sinh thiết, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ lấy một lượng nhỏ mô kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm kiếm các tế bào tiền ung thư hoặc tế bào ung thư. Hầu hết có sinh thiết tại phòng khám của bác sĩ, và không cần gây mê. Bạn có thể gặp một số ít trường hợp chảy máu và xuất tiết sau khi kiểm tra và khó chịu tương tự như đau bụng. Có thể dùng Ibuprofen để làm giảm các triệu chứng này.

Sinh thiết qua soi cổ tử cung: Soi cổ tử cung, lấy một phần nhỏ mô bất thường khỏi bề mặt cổ tử cung bằng một dụng cụ chuyên biệt. Các tế bào sau đó được kiểm tra dưới kính hiển vi.

Nạo kênh cổ tử cung: Một thủ thuật trong đó niêm mạc ống cổ tử cung được nạo bằng một dụng cụ hình thìa gọi là curette. Có thể thực hiện tại phòng khám và không cần gây mê. Có thể có một số ít trường hợp đau bụng có thắt và chảy máu sau khi làm thủ thuật.

Khoét chóp: Một mẫu mô hình nón được lấy ra khỏi cổ tử cung để xem các tế bào bất thường có ở mô bên dưới bề mặt cổ tử cung hay không. Mẫu vật này lớn hơn nhiều so với sinh thiết được thực hiện tại phòng thủ thuật mà không cần gây mê. Mẫu mô này cũng có thể được lấy ra bằng thủ thuật dùng vòng LEEP, có thể được thực hiện dưới gây tê tại chỗ, hoặc khoét chóp bằng dao, được thực hiện trong phòng mổ dưới gây tê tại chỗ. Một số trường hợp có thể bị chảy máu âm đạo trong khoảng một tuần hoặc ra huyết dạng đốm trong khoảng ba tuần sau khi làm thủ thuật.

LEEP (Thủ thuật căt bỏ bằng dao điện vòng Loop) : LEEP được thực hiện bằng cách sử dụng một dây nóng nhỏ để loại bỏ các mô và tế bào tiền ung thư khỏi cổ tử cung. Thủ thuật này có thể thực hiện tại phòng khám và gây tê tại chỗ. Một số ít trường hợp có thể bị tiết dịch âm đạo từ trung bình đến nặng kéo dài đến ba tuần.

   (Nguồn: Cervical Cancer Screening: Pap and HPV Tests, National Cervical Cancer Coalition, NCCC 2019)


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 22 Tháng 8 2019 17:56