Vitamin D thấp liên quan đến bệnh Alzheimer

Ths Phan Đồng Bảo Linh (dịch bài phỏng vấn tác giả)

Bài tổng quan hệ thống mới nhất của y văn về người mắc bệnh Alzheimer (AD) có nồng độ vitamin D thấp hơn những người không có AD và kết quả kiểm tra nhận thức tốt hơn có liên quan với nồng độ vitamin D cao hơn.

“Nhìn chung, kết quả cung cấp bằng chứng đầy đủ để đảm bảo tiếp tục điều tra xác định có tồn tại mối quan hệ nhân quả”, lời tác giả PGS.TS. Cynthia Balion, một nhà hóa sinh lâm sàng, khoa Bệnh học và Y học phân tử, Đại học McMaster, Hamilton, Ontario, Canada.

"Tôi nghĩ rằng chúng tôi có dữ liệu thực sự tốt để làm rõ vấn đề mà đến đây mọi người cần phải làm nhiều nghiên cứu can thiệp xem có hay không cho vitamin D giúp những người nguy cơ cao tiến triển suy giảm nhận thức," Dr Balion nói với Tin tức y tế Medscape.

Bài tổng quan mới công bố trên số ra ngày 25/ 9/ 2012 của tạp chí Neurology.

Nghiên cứu liên quan

Dr Balion và đồng nghiệp tìm trên MEDLINE, EMBASE, Amed, PsychI- NFO và cơ sở dữ liệu trung tâm Chontrane cho các nghiên cứu xuất bản bằng tiếng Anh ở người lớn đo mức vitamin D và các nghiên cứu thích hợp liên quan (ví dụ: khả năng tổng hợp, khả năng điều hành, tốc độ tư duy, sự tập trung, trí nhớ hoặc trí thông minh) như một phép đo chức năng nhận thức. Họ chấp nhận tất cả các tiêu chuẩn chẩn đoán được công nhận.

Tổng quan bao gồm 37 nghiên cứu, trong đó có 21 nghiên cứu cắt ngang, 10 đối chứng, 1 trước-sau với nhóm so sánh và 2 nghiên cứu thuần tập tiến cứu (prospective), cũng như 3 thử nghiệm đối chứng, ngẫu nhiên (RCT). Cỡ mẫu nghiên cứu khác nhau từ 27 đến 17.099 người tham gia.

Ba mươi nghiên cứu chỉ gồm những người tham gia tuổi cao, thường từ 65 tuổi trở lên, trong khi 9 nghiên cứu chỉ bao gồm phụ nữ và 2 người đàn ông duy nhất. Tiêu chuẩn loại trừ các nghiên cứu khác nhau (bao gồm ví dụ sung dinh dưỡng như canxi và vitamin D; điều trị hormone; các bệnh như bệnh thận, bệnh gan và loãng xương)

Tất cả các nghiên cứu đo nồng độ 25-hydroxyvitamin D [25 (OH) D] ngoại trừ 1 đo 1,25 dihydroxyvitamin D [1,25 (OH) D], 4 nghiên cứu đo cả hai. Nhiều điểm cắt Vitamin D được phân loại là thiếu hoặc không đầy đủ (<25 nmol / L, ≥ 25 đến 50 nmol / L, <50 nmol / L) và đủ (≥ 25 nmol / L đủ, ≥ 50 nmol / L, ≥ 50 đến <75 nmol / L, > 75 nmol / L).

vitamin_d

Chuyển hóa và vai trò của Vitamin D

Trong 14 nghiên cứu, kết quả về nhận thức bao gồm chẩn đoán sa sút trí tuệ, được xác định phổ biến nhất theo Hướng dẫn (manual) chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần hoặc Viện quốc gia của rối loạn giao tiếp và thần kinh và bệnh Alzheimer- Đột quỵ và tiêu chuẩn Hội các rối loạn liên quan. Trong số 24 nghiên cứu bao gồm một bài kiểm tra chức năng nhận thức, test được sử dụng phổ biến nhất là “Thăm khám trạng thái tâm thần nhỏ” (the Mini-Mental State Examination - MMSE).

Trong hầu hết các trường hợp, mối quan hệ giữa vitamin D và nhận thức được đánh giá bằng cách so sánh nồng độ vitamin D trung bình giữa các bệnh nhân được chẩn đoán mắc chứng mất trí và nhóm chứng hoặc điểm kiểm tra tâm lý thần kinh trung bình giữa các nhóm vitamin D.

Phân tích gộp (Meta)

Có đủ dữ liệu để thực hiện 2 phân tích meta. Đầu tiên so sánh nồng độ 25(OH)D trung bình giữa bệnh Alzheimer (AD) và nhóm chứng. Sáu nghiên cứu cắt ngang hoặc đối chứng so sánh dữ liệu từ 888 người tham gia đã chứng minh nồng độ trung bình 25(OH)D thấp hơn tập trung ở những bệnh nhân AD so với nhóm chứng. Sự khác biệt trung bình là -15,0 nmol / L (95% khoảng tin cậy [CI], -26,2 đến -3,9 nmol / L).

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng một yếu tố quyết định quan trọng của tính không đồng nhất có ý nghĩa thống kê là phương pháp  sử dụng đo 25(OH)D. Khảo nghiệm protein gắn kết tương tranh (CPBA) giải thích tính không đồng nhất, nhưng phương pháp này đã bị rút khỏi sử dụng thương mại vì các vấn đề về độ chính xác, Dr Balion nói.

Khi phân tích giới hạn của 4 nghiên cứu sử dụng phương pháp khác với CPBA, sự khác biệt chung giữa AD và nhóm chứng là -6,2 nmol / L (95% CI, -10,6 đến -1,8 nmol / L), kết quả phù hợp với nhiều nghiên cứu. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy khi nghiên cứu so sánh nhóm sa sút trí tuệ bất kỳ với một nhóm chứng mà sử dụng phương pháp khác với CPBA để đo lượng vitamin D.

Tiến sĩ Balion nhấn mạnh sự cần thiết phải tiêu chuẩn hóa các phương pháp đo 25(OH)D và lưu ý rằng các tổ chức liên quan phải giải quyết vấn đề này. Trong khi đó, điều quan trọng cần xem xét các loại phương pháp phân tích được sử dụng khi so sánh kết quả giữa các nghiên cứu khác nhau.

vitamin_d2

Vai trò thần kinh của Vitamin D

Thiếu tiêu chuẩn hóa thực sự là "một vấn đề lớn trong lĩnh vực này ngay bây giờ," nhận xét của MD. Raj C. Shah, một nhà lão khoa và phó giáo sư của y học gia đình, Trung tâm Rush bệnh Alzheimer, Trung tâm Y tế Đại học Rush, Chicago, Illinois. "Điều quan trọng để nhận ra rằng tất cả các phép đo của vitamin D là không như nhau."

Phân tích meta thứ hai so sánh điểm MMSE trung bình giữa các thành viên với nồng độ 25(OH)D dưới 50 mmol/L và những người có nồng độ 50 mmol/L hoặc cao hơn, 50 mmol/L là điểm cắt phổ biến nhất báo cáo ở các nghiên cứu và thường được sử dụng để xác định thiếu hụt vitamin D. Tám nghiên cứu cắt ngang và đối chứng (case-cotrol), trong đó bao gồm dữ liệu từ 2749 người tham gia, đóng góp cho phân tích này. Tóm lại, các nghiên cứu cho thấy điểm MMSE trung bình cao hơn ở người tham gia có nồng độ vitamin D cao hơn.

Sự khác biệt điểm trung bình MMSE là 1.2 (95% CI, 0,5 đến 1,9), mặc dù tính không đồng nhất ý nghĩa thống kê. Không cái nào có phân tích phân nhóm (ví dụ, tỷ lệ phụ nữ tham gia, điều chỉnh cho ít nhất là tuổi và giới) giải thích tính không đồng nhất này.

Tiến sĩ Balion lưu y trừ 2 nghiên cứu, các nghiên cứu có số điểm MMSE trung bình các nhóm rất giống nhau. Khi 4 nghiên cứu sử dụng một loại công cụ sàng lọc nhận thức khác được thêm vào, kết quả không thay đổi đáng kể.

2 nghiên cứu thuần tập bao gồm trong phân tích, 1 chỉ gồm những người đàn ông báo cáo không có liên quan đáng kể giữa vitamin D và suy giảm nhận thức, tuy nhiên nghiên cứu khác với những người tham gia có sự thiếu hụt vitamin D có tăng nguy cơ suy giảm nhận thức đáng kể qua 6 năm so với những người có nồng độ vitamin đủ. Đối với các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, các nghiên cứu chỉ sử dụng bổ sung một mình vitamin D tìm thấy khác không đáng kể giữa các nhóm khác nhau với biện pháp đo độ nhận thức duy nhất được sử dụng.

Phân tích toàn diện 

Theo Dr Balion, các kết quả của tổng quan hiện tại này khác với 2 nghiên cứu trước đó bởi vì nó toàn diện hơn trong chiến lược tìm kiếm và tiêu chuẩn chọn lựa của nó, do đó nhiều bài viết được sàng lọc (3229 vs 99 đánh giá trước đây). Nó cũng bao gồm nhiều nghiên cứu hơn (37 so với 5 đánh giá trước). "Chúng tôi dứt khoát không bị hạn chế trong những gì chúng tôi tìm hiểu", bà ta nói.

Dr Balion chỉ ra rằng một số yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ vitamin D, bao gồm cả sắc tố da, tuổi tác, di truyền và thời gian tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và thử nghiệm không được xem xét bởi một số nghiên cứu. Cũng thì, cô nói, mối quan hệ nhân quả ngược lại không thể được loại trừ bởi vì người lớn tuổi có thể có nghèo dinh dưỡng và dành ít thời gian tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, nguồn chính của vitamin D. Mặc dù có những hạn chế, "Tôi khá hài lòng nói rằng vitamin D đóng một vai trò quan trọng trong sức khỏe não bộ ", bà nói.

Cách thức xác định vitamin D bảo vệ não là chưa rõ ràng, nhưng nghiên cứu cho thấy rằng vitamin D đóng vai trò như một neurosteroid, tiến sĩ Balion nói. Ở cấp độ phân tử, não bộ có thể tổng hợp dạng hoạt động của vitamin D [1,25 (OH) D] trong một số loại tế bào và vùng, chủ yếu là ở vùng dưới đồi và các tế bào thần kinh (neurons) lớn trong chất xám. Nhiều gen được điều khiển bởi vitamin D, góp phần bảo vệ thần kinh bằng điều hòa sản xuất những chất như yếu tố tăng trưởng thần kinh và điều hòa các chất dẫn truyền thần kinh.

Nồng độ lý tưởng của vitamin D cũng chưa thực sự được biết đến, Balion nói. "Chúng tôi đã cố gắng để đánh giá với những dữ liệu mà chúng tôi có từ tất cả các bài báo và một số nghiên cứu cho thấy có thể có điểm cắt hữu ích mà các nghiên cứu khác đã không thực sự đi tìm điểm cắt. Hầu hết các nghiên cứu không được thiết kế để tìm vì lý do nó không phải nghiên cứu hậu quả".

Tuy nhiên, bà nhấn mạnh rằng 2 điểm cắt được đề nghị trên toàn thế giới: 50 và 75 nmol/L. Canada, ví dụ, đề nghị mức cao hơn cho sức khỏe của xương.

Thầy thuốc nên khuyên bổ sung vitamin D cho các bệnh nhân không được nhận đủ. Nhiều quốc gia, bao gồm Canada, đề nghị 600 IU vitamin D hàng ngày cho trẻ lớn và người lớn, mức khuyến nghị khác cho trẻ em và phụ nữ mang thai.

Nghiên cứu Vitamin D 

Hệ thống chăm sóc y tế phổ quát của Ontario không cung cấp việc kiểm tra vitamin D trừ một số điều kiện nhất định (loãng xương, thiếu xương, còi xương, hội chứng kém hấp thu, bệnh thận hoặc đang dùng thuốc ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa vitamin D) vì bằng chứng chưa được xác minh, Dr. Balion nói.

Hoa Kỳ cũng có đề nghị tương tự như Canada, Dr Shah lưu ý. Người Mỹ đang ngày càng trở nên ý thức hơn về lợi ích sức khỏe của vitamin D và uống bổ sung nhiều hơn, tuy nhiên, mặc dù vitamin tan trong chất béo, như vậy có thể được an toàn hơn so với một số các vitamin khác khi dùng ở liều cao, Dr Shah lưu ý rằng nó có thể gây đau cơ và các vấn đề về đường tiêu hóa.

Khi được yêu cầu nhận định về nghiên cứu này, Dr Shah nói, “nó giúp các bác sĩ lâm sàng như tôi và các nhà nghiên cứu hiểu tình trạng của khoa học trong lĩnh vực này và nó cũng lưu ý rằng chúng tôi còn có nhiều việc để làm." Ông lưu ý rằng trong số 37 bài báo trong tổng quan, chỉ có một vài thử nghiệm lâm sàng.

Tuy nhiên, nó có thể đang có thay đổi. VITAL (thử nghiện vitamin D và omega-3), một thử nghiệm lâm sàng 5-năm lớn được tài trợ bởi Viện Y tế Quốc gia, giao ngẫu nhiên cho 20.000 người trên khắp Hoa Kỳ. Thử nghiệm đổi chứng giả dược điều tra xem liệu vitamin D hoặc axit béo omega ảnh hưởng đến các khía cạnh khác nhau của sức khỏe, bao gồm cả nhận thức.

Dr Shah nêu lên một số vấn đề quan trọng liên quan đến phân tích. Như về mặt điều kiện, kết quả của nghiên cứu vitamin D có thể phụ thuộc vào nơi người ta đang sống và thời gian trong năm mà thử nghiệm được tiến hành.

Ông cũng lưu ý rằng hầu hết các nghiên cứu có thể không được thực hiện trong các quần thể đa dạng. "Tôi nghi ngờ rằng các đối tượng chủ yếu là người da trắng, nhưng vì Hoa Kỳ có dân số ngày càng đa dạng," chúng ta cần phải có các biện pháp tính toán tác động ở những người lớn già hơn khác nhau."

Dr Shah cho biết rằng, như bất kỳ phân tích tổng hợp nào, một số sai lệch xuất bản có thể tồn tại, những nghiên cứu âm tính không được công bố hoặc sẵn sàng cho xem xét.

Ông cũng đặt câu hỏi liệu can thiệp thông qua bổ sung đến mức mục tiêu vitamin D sẽ ảnh hưởng đến hậu quả. Ông sử dụng ví dụ của lipoprotein mật độ cao, nơi các chuyên gia tin rằng việc tăng mức làm giảm rủi ro cho bệnh tim. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy rằng các nỗ lực đó không chỉ không có các kết quả mong đợi mà còn gây ra một số tác hại do tác dụng phụ.
Neurology. 2012; 79:1397-1405

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 18 Tháng 10 2012 06:55