An toàn khi sử dụng liên tục thuốc ức chế men chuyển và chẹn thụ thể ở bệnh nhân Covid-19

Bs Đoàn Hoàng - 

Thử nghiệm BRACE-CORONA - thử nghiệm ngẫu nhiên đầu tiên giải quyết câu hỏi liệu bệnh nhân mắc COVID-19 có nên tiếp tục dùng thuốc ức chế men chuyển (ACEI) hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARB) - hiện đã được công bố.

Nghiên cứu được thực hiện trên những bệnh nhân nhập viện với COVID-19 đang dùng ACEI hoặc ARB trước khi nhập viện, cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về số ngày sống và xuất viện trung bình của những người được chỉ định ngừng thuốc so với những người được chỉ định tiếp tục dùng những loại thuốc này.

Tuy nhiên, đã có những gợi ý rằng việc tiếp tục dùng thuốc ACEI hoặc ARB có thể có lợi cho những bệnh nhân bị COVID-19 nặng.

Nghiên cứu lần đầu tiên được trình bày tại Đại hội Hiệp hội Tim mạch Châu Âu (ESC) 2020. Nghiên cứu được công bố trực tuyến trên tạp chí JAMA vào ngày 19 tháng 1 năm 2021.

Các tác giả kết luận: “Những phát hiện này không ủng hộ việc ngưng sử dụng ACEIs hoặc ARBs ở những bệnh nhân nhập viện với COVID-19 mức độ nhẹ đến trung bình nếu có chỉ định điều trị”.

Renato D. Lopes, MD, Viện Nghiên cứu Lâm sàng Duke, Durham, Bắc Carolina giải thích rằng đã có những suy đoán mâu thuẫn về tác dụng của các chất ức chế hệ thống renin-angiotensin-aldosterone (RAAS) đối với quá trình điều trị COVID-19.

Thêm nữa các quan sát từ các mô hình động vật cho thấy ACEI và ARB điều chỉnh sự biểu hiện của ACE2, một thụ thể liên quan đến sự lây nhiễm SARS-CoV-2 vào các tế bào đích của vật chủ. Điều này dẫn đến những gợi ý rằng những loại thuốc này có thể tăng cường sự liên kết của virus và sự xâm nhập của tế bào. Ngược lại, các chất ức chế RAAS có thể mang lại lợi ích cho bệnh nhân COVID-19 thông qua tác động lên biểu hiện angiotensin II và làm tăng angiotensin 1-7 và 1–9 sau đó, có tác dụng giãn mạch và chống viêm có thể làm giảm tổn thương phổi.

antoan1

Thử nghiệm BRACE-CORONA thực hiện ở 659 bệnh nhân nhập viện tại Brazil với COVID-19 mức độ nhẹ đến trung bình, những người đang dùng ACEI hoặc ARB trước khi nhập viện. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 55 tuổi. Trong số những bệnh nhân này, 57,1% được coi là có các trường hợp bệnh mức độ nhẹ khi nhập viện, và 42,9% được coi là có các trường hợp bệnh mức độ trung bình.

Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa về số ngày còn sống và ra viện của bệnh nhân trong nhóm ngưng thuốc (trung bình, 21,9 ngày) so với bệnh nhân trong nhóm tiếp tục (trung bình 22,9 ngày). Tỷ lệ trung bình là 0,95 (KTC 95%, 0,90 - 1,01).

Cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tử vong (2,7% ở nhóm ngừng thuốc so với 2,8% ở nhóm tiếp tục); tử vong do tim mạch (0,6% so với 0,3%), hoặc tiến triển COVID-19 (38,3% so với 32,3%).

Các biến cố ngoại ý thường gặp nhất ở bệnh nhân COVID-19 là suy hô hấp cần thở máy xâm lấn (9,6% ở nhóm ngưng thuốc so với 7,7% ở nhóm tiếp tục), sốc cần dùng thuốc vận mạch (8,4% so với 7,1%), nhồi máu cơ tim cấp (7,5% so với 4,6%), suy tim mới hoặc xấu đi (4,2% so với 4,9%), và suy thận cấp cần chạy thận nhân tạo (3,3% so với 2,8%).

Các tác giả lưu ý rằng tăng huyết áp là một bệnh đi kèm quan trọng ở bệnh nhân COVID-19. Dữ liệu gần đây cho thấy rằng rối loạn chức năng miễn dịch có thể góp phần vào kết cục xấu ở những bệnh nhân bị COVID-19 và tăng huyết áp.

Nó đã được chứng minh rằng khi ngừng sử dụng thuốc dài hạn trong thời gian nằm viện, việc sử dụng những loại thuốc đó thường không được tiếp tục do sức ì về mặt lâm sàng. Các tác giả báo cáo kết quả lâu dài trở nên tồi tệ hơn. Trong nghiên cứu hiện tại, tất cả bệnh nhân đều bị tăng huyết áp và hơn 50% bị béo phì; cả hai bệnh đi kèm này đều làm tăng nguy cơ có kết quả kém với COVID-19, họ nói thêm.

Họ chỉ ra rằng một phân tích độ nhạy trong đó vị trí được coi là tác động ngẫu nhiên cho thấy một phát hiện có ý nghĩa thống kê có lợi cho nhóm tiếp tục sử dụng ACEI hoặc ARB. Phát hiện này tương tự như kết quả của phân tích đang điều trị. Cũng có những tương tác có ý nghĩa thống kê giữa hiệu quả điều trị và một số phân nhóm, chẳng hạn như bệnh nhân có độ bão hòa oxy thấp hơn và mức độ bệnh nặng hơn khi nhập viện. Đối với những bệnh nhân này, việc tiếp tục dùng thuốc ƯCMC hoặc ARB có thể có lợi.

Họ nói: “Các phân tích chính với kết quả không có nhưng khoảng tin cậy rộng 95% cho thấy rằng nghiên cứu có thể đã không đủ khả năng để phát hiện ra lợi ích có ý nghĩa thống kê của việc tiếp tục sử dụng ACEI hoặc ARB.

Bản gốc: JAMA. Published online January 19, 2021.


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 25 Tháng 1 2021 15:38