CN Nguyễn Thị Thu Hồng -
Đái tháo đường, một đại dịch toàn cầu, đang gia tăng với tốc độ đáng báo động. Trên toàn cầu, 589 triệu người lớn trong độ tuổi từ 20 đến 79 đang sống chung với bệnh đái tháo đường, tức là cứ 9 người thì có khoảng 1 người mắc bệnh. Con số này dự kiến sẽ tăng lên 853 triệu vào năm 2050. Hiện nay, Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những bệnh mạn tính phổ biến nhất toàn cầu với tỉ lệ ngày càng gia tăng, trong đó hơn 90% số ca mắc là ĐTĐ type 2. Bệnh được đặc trưng bởi tình trạng rối loạn chuyển hóa glucid, protid và lipid do hậu quả của kháng insulin kết hợp với giảm chế tiết insulin tương đối hay tuyệt đối. Tăng glucose máu dẫn đến các biến chứng cấp tính và lâu ngày dẫn đến tình trạng tổn thương, rối loạn và suy giảm chức năng của nhiều cơ quan đặc biệt là tim, mắt, thận, thần kinh.
Kiểm soát đường máu trong điều trị đái tháo đường là yếu tố then chốt để ngăn ngừa và làm chậm tiến triển các biến chứng của bệnh. Trong quá trình điều trị, các chỉ số glucose, HbA1C và fructosamin được dùng để theo dõi và đánh giá hiệu quả việc kiểm soát đường máu.
Glucose máu phản ánh chính xác nồng độ glucose trong máu tại thời điểm lấy máu xét nghiệm nhưng không đánh giá được sự dao động của nồng độ glucose máu trong cả quá trình điều trị.
HbA1C (Hemoglobin A1C) là một chỉ số được dùng phổ biến trong theo dõi bệnh nhân đái tháo đường. HbA1C phản ánh đường máu trung bình của bệnh nhân trong thời gian khoảng 3 tháng trước đó và có ý giá trị dự đoán các biến chứng của bệnh. Tuy nhiên, HbA1C không cho phép đánh giá kiểm soát đường máu trong thời gian ngắn (2 - 3 tuần) và trong một số trường hợp nhất định xét nghiệm HbA1C không đáng tin cậy. Một ví dụ là ở những bệnh nhân mắc chứng rối loạn hồng cầu (RBC) và bệnh thận.











