• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Procalcitonin (PCT) – một dấu ấn mới để chẩn đoán nhiễm khuẩn

  • PDF.

CN Nguyễn Thị Huyền Ngân - Khoa Hóa sinh

Procalcitonin (PCT) là một tiền nội tiết tố có 116 acid amin với trọng lượng phân tử khoảng 12,7 kD. PCT được biểu hiện ở tế bào nội tiết thần kinh(các tế bào C của tuyến giáp, mô phổi và tụy) và bị cắt ra bởi men thành các dạng chưa có hoạt tính đầy đủ như calcitonin, katacalcin và một đoạn có N tận cùng. Trong máu của người khỏe mạnh chỉ chứa một lượng nhỏ PCT. Khi bị nhiễm trùng, lượng PCT gia tăng.

Điều có thể xảy ra là nhiều mô sản sinh PCT trong cơ thể phản ứng lại với nhiễm trùng huyết như đã thấy ở các mô thử nghiệm ở động vật. PCT có trong máu bệnh nhân nhiễm trùng chỉ chứa 114 acid amin không có dipeptide có N tận cùng là Ala-Pro.

procalci

Nồng độ PCT rất thấp ở người khỏe mạnh bình thường ( < 0.046 ng/ml) và  thường thấy gia tăng ở các bệnh nhân nhiễm trùng huyết, đặc biệt là trường hợp nhiễm trùng huyết nặng và sốc nhiễm trùng. PCT được xem là một  dấu ấn tiên lượng nhằm củng cố tiên đoán nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân.

Trong viêm tụy cấp, PCT là một chỉ số đáng tin cậy cho mức độ nghiêm trọng và các biến chứng nguy hiểm.

Ở bệnh nhân bị nhiễm trùng đường hô hấp mắc phải trong cộng đồng hay viêm phổi do máy thở, xét nghiệm PCT được đề nghị sử dụng làm hướng dẫn để quyết định sự cần thiết của việc điều trị kháng sinh và theo dõi mức độ thành công của trị liệu.

* Nguyên lý xét nghiệm:

Nguyên lý bắt cặp. Tổng thời gian xét nghiệm: 18 phút.

  • Thời kỳ ủ đầu tiên: Kháng nguyên trong mấu thử (30μL), kháng thể đơn dòng đặc hiệu kháng PCT đánh dấu biotin, và kháng nguyên đơn dòng đặc hiệu kháng PCT đánh dấu phức hợp ruthenium phản ứng với nhau tạo thành phức hợp bắt cặp.
  • Thời kỳ ủ thứ hai: Sau khi thêm các vi hạt phủ streptavidin, phức hợp miễn dịch trên trở nên gắn kết với pha rắn thông qua sự tương tác giữa biotin và streptavidin.
  • Hỗn hợp phản ứng được chuyển tới buồng đo, ở đó các vi hạt đối từ được bắt giữ trên bề mặt của điện cực. Những thành phần không gắn kết sẽ bị thải ra ngoài buồng đo bởi dung dịch ProCell/ProCell M. Cho điện áp vào điện cực sẽ tạo nên sự phát quang hóa học được đo bằng bộ khuếch đại quang tử.
  • Các kết quả được xác định thông qua một đường chuẩn xét nghiệm trên máy được tạo nên bởi xét nghiệm 2-điểm chuẩn và thông tin đường chuẩn chính qua mã vạch trên hộp thuốc thử.

*  Yếu tố ảnh hưởng và hạn chế:

- Xét nghiệm không bị ảnh hưởng bởi vàng da (billirubin < 428μmol/L hoặc < 25 mg/dL), tán huyết (Hb <0.559 mmol/L hoặc <0.900 g/dL), lipid huyết (Intralipid< 1500 mg/dL) và biotin (<123 nmol/L hoặc <30 ng/mL).

- Tiêu chuẩn: Độ phục hồi trong khoảng ± 15% giá trị ban đầu.

- Ở bệnh nhân dùng liều cao biotin (nghĩa là >5 mg/ngày), không nên lấy mẫu cho đến ít nhất 8 giờ sau khi dùng liều biotin cuối.

- Kết quả xét nghiệm không bị nhiễu bởi các yếu tố thấp khớp với nồng độ lên đến 1500 IU/mL.

- Hiệu ứng mẫu phẩm có nồng độ cao không ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm với nồng độ PCT lên đến 1000 ng/mL.

- Thử nghiệm in vitro được tiến hành trên 18 loại dược phẩm thường sử dụng và 10 loại dược phẩm đặc trị. Không có hiện tượng nhiễu tới xét nghiệm.

- Trong một số hiếm trường hợp, nhiễu có thể xảy ra do nồng độ kháng thể kháng kháng thể đặc hiệu kháng chất phân tích, kháng streptavidin hay ruthenium quá cao của mẫu phẩm phân tích. Xét nghiệm đã được thiết kế phù hợp để giảm thiểu các hiệu ứng này.

- Nồng độ PCT có thể tăng trong vài trường hợp nhất định không do nhiễm trùng. Bao gồm các trường hợp sau đây, nhưng không giới hạn:

  • Sốc tim kéo dài hay nghiêm trọng.
  • Bất thường tưới máu cơ quang nghiêm trọng kéo dài.
  • Ung thư phổi tế bào nhỏ hay ung thư biểu mô tế bào C tủy của tuyến giáp.
  • Ngay sau khi chấn thương nặng, can thiệp phẫu thuật lớn, phỏng nặng.
  • Việc điều trị gây kích thích giải phóng các cytokine tiền viêm.
  • Trẻ sơ sinh (<48 giờ sau khi sinh).

Với mục tiêu chẩn đoán, kết quả xét nghiệm cần được đánh giá kèm theo tiền sử, thăm khám lâm sàng và các phát hiện khác.

* Giá trị bình thường:

  • 0.046 ng/mL (hay <0.046μg/L)

* Giá trị có ý nghĩa lâm sàng:

  • Giá trị PCT < 10 ng/ml : Không chỉ định dùng kháng sinh
  • Giá trị PCT < 0.25 ng/ml : Không khuyến cáo dùng kháng sinh, nếu trị liệu giảm xuống mức này thì tiếp tục dùng cho hiệu quả
  • Giá trị PCT > 0.25 ng/ml : Khuyến cáo và cân nhắc sử dụng kháng sinh.
  • Giá trị PCT > 0.5 ng/ml : Chỉ định kháng sinh là bắt buộc.
  • Giá trị PCT 0.5-2.0 ng/ml: Nhiễm khuẩn do đáp  ứng viêm hệ thống tương đối, nguyên nhân có thể là chấn thương, phẫu thuật sau chấn thương, sốc tim...
  • Giá trị PCT 2.0 – 10 ng/ml: Đáp ứng viêm hệ thống nghiêm trọng, nguyên nhân bởi nhiễm trùng hệ thống và nhiễm khuẩn huyết, chưa có suy đa tạng.
  • Giá trị PCT > 10 ng/ml: Đáp ứng viêm hệ thống sâu do nhiễm khuẩn huyết nghiêm trọng hoặc sốc nhiễm khuẩn.

Tài liệu tham khảo

  1. Tài liệu hãng Roche
  2. https://www.researchgate.net/publication/7556157_Procalcitonin_in_bacterial_infections_-_Hype_hope_more_or_less

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 13 Tháng 1 2017 09:10

You are here Đào tạo Tập san Y học Procalcitonin (PCT) – một dấu ấn mới để chẩn đoán nhiễm khuẩn