Bs CK2 Trần Lâm
Trong dự phòng thứ phát, aspirin là một thành phần không thể thiếu trong các hướng dẫn (guidelines) dự phòng thứ phát ở những bệnh nhân đã được biết mắc các bệnh tim mạch (BTM). Dựa vào kết quả của các phân tích gộp, chẳng hạn như kết quả của “Antithrombotic Trialists’ Collaboration” trong hơn thập kỷ trước, aspirin làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim (NMCT), đột quỵ và tử vong mạch máu lần lượt là 35%, 25% và 15%. Sau đột quỵ và NMCT, việc sử dụng aspirin dẫn đến ít hơn 36 biến cố NMCT tái phát, đột quỵ hoặc tử vong do mạch máu trên 1000 bệnh nhân được điều trị, trong khi đó, nguy cơ chảy máu chỉ 1 đến 2 trên 1000 bệnh nhân được điều trị.
Còn trong dự phòng tiên phát, năm 2016, hai đánh giá / phân tích tổng hợp có hệ thống do Lực lượng đặc nhiệm dịch vụ dự phòng của Mỹ (US Preventive Services Task Force - USPSTF) thực hiện đã chỉ ra rằng, hiệu quả của việc dự phòng tiên phát bằng aspirin có thể có cùng mức độ như trên, giảm 20% nguy cơ các biến cố chảy máu lớn, và nguy cơ đột quỵ xuất huyết cao hơn 30%. Một tổng quan hệ thống thứ hai cũng kết luận thêm về việc giảm 20% - 24% tỷ lệ mắc mới ung thư đại trực tràng (UTĐTT) và giảm 33% tử vong do UTĐTT.
Những dữ liệu này đã thúc đẩy USPSTF đưa ra khuyến cáo mức B đối với liệu pháp aspirin liều thấp trong dự phòng BTM và UTĐTT cho người lớn từ 50 - 59 tuổi có nguy cơ BTM 10 năm ≥ 10%, không có nguy cơ chảy máu cao, có kỳ vọng sống thêm ít nhất là 10 năm, và sẵn sàng dùng aspirin liều thấp hàng ngày trong ít nhất 10 năm. Đối với những người từ 60 - 69 tuổi có các đặc điểm tương tự, quyết định có dùng aspirin hay không được cá thể hóa. Không có khuyến cáo nào được đưa ra cho những người ngoài độ tuổi này.

Hình 1: Khuyến cáo dự phòng tiên phát bệnh tim mạch của USPSTF