• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Ung thư vùng đầu và cổ (P.1)

  • PDF.

Bs Nguyễn Duy Phi Hiệp - Khoa Ung bướu

1. Dịch tễ học:

Tỷ lệ mắc mới ung thư tế bào vảy vùng đầu và cổ là hơn 500000 ca /năm trên toàn thế giới, và từ 40000 đến 60000 ca /năm ở Mỹ, chiếm khoảng 3-5 % tổng số ca mắc mới ung thư và 2% tỷ lệ chết do ung thư.

Phần lớn gặp ở bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi và tỷ lệ mắc mới gia tăng theo độ tuổi.

Tỷ lệ Nam: Nữ là từ 2:1 đến 5:1.

Người da đen có nguy cơ mắc bệnh cao hơn và tỷ lệ sống còn giữa người Mỹ gốc Phi thì thấp hơn người da trắng.

90% ung thư loại này là ung thư tế bào vảy. Vị trí thường gặp nhất ở Mỹ là khoang miệng, hầu họng, thanh quản, hạ họng. Ung thư hốc mũi, má, xoang cánh mũi, tuyến nước bọt, các Sarcoma khác, lymphoma, melanoma thì hiếm gặp hơn.

KDAU

3. Các yếu tố nguy cơ:

Uống rượu nhiều tăng nguy cơ phát triển ung thư tế bào vảy vùng đầu và cổ lên 2 đến 6 lần, trong khi hút thuốc lá tăng nguy cơ từ 5 đến 25 lần, phụ thuộc vào giới, chủng tộc, và số lượng và thời gian hút thuốc. Nếu có cả hai yếu tố trên thì tăng nguy cơ từ 15 đến 40 lần.

Sử dụng thuốc lá điện tử hoặc nhai trầu với hoặc không với thuốc lá và vôi sống ( phổ biến ở nhiều quốc gia châu á và vài quốc gia ở châu Phi), được cho là liên quan với những tổn thương tiền ung thư và ung thư tế bào vảy khoang miệng.

Nhiều tổn thương niêm mạc bất bình thường đã được mô tả ở những bệnh nhân ung thư đầu và cổ. Có từ 2 đến 6% /năm tiến triển thành một ung thư vùng đầu cổ thứ hai, ung thư phổi, hoặc ung thư thực quản ở những bệnh nhân có tiền sử ung thư ở vùng này. Những người tiếp tục hút thuốc lá có nguy cơ cao nhất.

Epstein- Barr Virus được xác định một cách chính thức gây ra tất cả các ung thư không sừng hóa và không phân loại (ít hơn so với ung thư tế bào vảy) ở vùng hầu mũi.

Nhiễm HPV liên quan tới 70% các ung thư vùng hầu miệng, amygdale, và một ít ung thư thanh quản, ung thư hầu mũi tế bào vảy. Tỷ lệ mắc mới của HPV và những ung thư này dường như đang tăng ở một vài quốc gia, HPV dương tính thì phổ biến hơn ở những người không hút thuốc.

Sự rối loạn của quá trình sữa chữa DNA ( Ví dụ: Thiếu máu Faconi, dyskeratosis congenital) cũng như sự ức chế miễn dịch ở những bệnh nhân gép tạng thì cũng liên quan tới gia tăng nguy cơ ung thư tế bào vảy vùng đầu cổ.

3. Tầm soát:

The U.S Preventing Task Force không khuyến cáo chú tâm đến việc tầm soát ung thư miệng định kỳ ở số đông dân cư, do tỷ lệ mắc mới hàng năm thấp và sự thiếu hụt các nghiên cứu có độ nhạy. Họ chỉ khuyến cáo ngưng hút thuốc lá và hạn chế uống rượu.

Hội ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo nên khám miệng bới bác sỹ hoặc nha sĩ. Khám miệng nên bao gồm kiểm tra kỹ toàn bộ vùng niêm mạc, đánh giá tầm vận động của lưỡi, sờ nắn sàn miệng, lưỡi bằng hai tay, đánh giá sức khỏe răng.

Khám lâm sàng cẩn thận vùng đầu và cổ là cần thiết cho những cá nhân có các yếu tố nguy cơ ( hút thuốc là và/hoặc sử dụng rượu) và có những triệu chứng gợi ý. Bất cứ sự đau khu trú/lan tỏa nào đều cần phải được đánh giá, đặc biệt nếu các triệu chứng đó tồn tại hơn 4 tuần hoặc sau điều trị theo hướng nhiễm trùng những không khỏi hoàn toàn.

4. Dự phòng và Hóa chất dự phòng:

Khuyến cáo quan trọng nhất cho dự phòng ung thư vùng đầu cổ là khuyến khích ngưng hút thuốc và hạn chế uống rượu.

Liên quan với nguy cơ nhiễm HPV, ung thư vùng đầu cổ được cho là có liên hệ với việc có nhiều bạn tình, do đó, giáo dục về tình dục an toàn có thể có ích. Cân nhắc tiêm vaccin dự phòng HPV cho thanh thiếu niên, đây là một phương pháp hiện tại đã được chấp nhận bởi cục quản lý thực phẩm và dược phẩm hoa kỳ để dự phòng ung thư cổ tử cung ở nữ và mụn cóc sinh dục ở nam, cũng như dự phòng tiền ung thư vùng ống hậu môn.

Những tổn thương tiền ác tính xảy ra ở trong khoang miệng, họng, và thanh quản có thể được biểu hiện như chứng bạch sản ( một mảng trắng không phải do cào xước, không tìm được nguyên nhân rõ ràng) hoặc hồng sản ( những tổn thương dạng đốm, bở, màu đỏ). Những tổn thương này cần phải được sinh thiết và cắt bỏ nếu được. Nguy cơ của bạch sản không có loạn sản tiến triển thành ung thư là khoảng 4%. Tuy nhiêu, lên đến 40% nếu là loạn sản nặng hoặc hồng sản.

Hiện tại, chưa có hóa chất dự phòng có hiệu quả cho những bệnh nhân có nguy cơ mắc ung thư tế bào vảy vùng đầu cổ. Một thử nghiệm gần đây với chất đồng vận PPAR pioglitazone đã cho thấy có sự hồi quy hay sự giảm kích thước bạch sản khoảng 80%. Một nghiên cứu pha 2 đa trung tâm đang được tiến hành. Hóa chất dự phòng ngoài thử nghiệm lâm sàng không được khuyến cáo.

Theo “The Bethesda handbook of clinical oncology 4th edition”


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 31 Tháng 3 2018 12:16

You are here Đào tạo Tập san Y học Ung thư vùng đầu và cổ (P.1)