• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Chương trình “Phẫu thuật miễn phí cho trẻ khe hở môi – vòm miệng năm 2025” – Đăng ký, khám sàng lọc lần 1 từ 05/05/2025 đến 30/05/2025 – Liên hệ: Bs CK2 Nguyễn Minh Đức 0905309192 ------------ Chào mừng HỘI NGHỊ KHOA HỌC MẠNG LƯỚI CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH LẦN THỨ 7 - Ngày 06-07/06/2025 tại TP Tam Kỳ - Quảng Nam

Tập san Y học

Thông khí nhân tạo trong gây mê ở người lớn – Phần 2

  • PDF.

BS Võ Văn Phong - 

8. Thông khí bảo vệ phổi trong gây mê

Thông khí bảo vệ phổi (VT thấp, đặt PEEP) là có lợi cho các bệnh nhân ARDS và tổn thương phổi cấp (acute lung injury-ALI), và trở thành chăm sóc tiêu chuẩn trong ICU.

Thông khí bảo vệ phổi có thể có lợi cho các bệnh nhân không có tổn thương phổi, bao gồm các bệnh nhân có thông khí nhân tạo trong mổ.

Tác động phổi của gây mê toàn thân – Gây mê toàn thân làm giảm dung tích cặn chức năng (Functional residual capacity-FRC), và hậu quả là gây xẹp phổi đến 90% các bệnh nhân. Ngoài ra, xẹp phổi hấp thụ xảy ra trong gây mê toàn thân với nồng độ oxy thở vào cao. Thông khí cơ học đối mặt với xẹp phổi làm biến dạng nhu mô phổi, tạo ra sự căng phế nang, và khiến phổi bị chấn thương thể tích, chấn thương áp lực, và chấn thương sinh học.

Mục tiêu của thông khí bảo vệ phổi trong gây mê là để giảm căng phế nang quá mức và xẹp phổi theo chu kỳ (còn gọi là atelectrauma), đó là những khởi đầu chính của tổn thương phổi liên quan đến máy thở. Xẹp phổi có thể được ngăn ngừa hoặc đảo ngược bằng PEEP hoặc thủ thuật huy động phế nang (recruitment maneuvers), và sự căng phế nang quá mức có thể tránh được với thể tích khí lưu thông thấp và giảm áp lực cao nguyên và/hoặc áp lực đẩy.

Tác động phổi của gây mê toàn thân thường được dung nạp tốt ở những bệnh nhân khỏe mạnh trong thời gian gây mê ngắn. Tuy nhiên, nguy cơ biến chứng phổi sau mổ có thể tăng lên bởi các đặc điểm của bệnh nhân, quy trình phẫu thuật, và kỹ thuật gây mê.

thongkhi

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 10 Tháng 10 2020 09:23

Xử trí nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân xơ gan: Bằng chứng hiện tại và cách tiếp cận thực tế

  • PDF.

BS. Thái Đình Hạ Thy - 

Nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân xơ gan có liên quan đến tỷ lệ tử vong cao. Đáp ứng miễn dịch suy giảm là nguyên nhân làm tăng nguy cơ nhiễm trùng ở những bệnh nhân này. Những thay đổi về huyết động và hệ thống gợi ý nhiễm trùng huyết có thể được quan sát thấy ở bệnh nhân xơ gan khi không có nhiễm trùng; do đó, chẩn đoán và điều trị nhiễm trùng huyết có thể bị trì hoãn. Việc quản lý tối ưu bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết và xơ gan chưa được thiết lập tốt và thường được lấy từ các hướng dẫn đồng thuận và khuyến cáo của chuyên gia về quản lý bệnh nhân không xơ gan có nhiễm trùng huyết. Mặc dù thiếu bằng chứng, đề xuất một cách tiếp cận thực dụng hiện đại để quản lý nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân xơ gan, bao gồm lựa chọn dịch truyền, thuốc vận mạch và kháng sinh.

sofa8

Nhiễm trùng huyết là một phần của phổ bệnh từ nhiễm trùng đến sốc nhiễm trùng và vẫn là một vấn đề chăm sóc sức khỏe lớn trên toàn thế giới. 1 Xơ gan được xác định là một yếu tố nguy cơ tử vong độc lập ở bệnh nhân sốc nhiễm trùng (tỷ lệ chênh = 2,5 [2,3; 2,8]). 1 Sự phát triển của nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân xơ gan làm tăng đáng kể tỷ lệ tử vong ngắn hạn và dài hạn. Những thay đổi về huyết động và miễn dịch toàn thân quan sát được ở bệnh xơ gan có khả năng ảnh hưởng đến kết quả và do đó xử trí nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng. Trong khi việc chăm sóc bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết đã được thiết lập tốt trong dân chúng nói chung, 4Có một số ít nghiên cứu ở bệnh nhân xơ gan. Mặc dù kết quả của bệnh nhân xơ gan và sốc nhiễm trùng được cải thiện trong những thập kỷ qua, tỷ lệ tử vong tại đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) vẫn cao tới 65%.

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 28 Tháng 9 2020 21:38

Sơ lược về bệnh lý tan huyết ở bào thai và trẻ sơ sinh

  • PDF.

Bs Trần Thị Thảo - 

Đại cương

Bệnh lý tan huyết ở bào thai và trẻ sơ sinh (HDFN: haemolytic disease of the fetus and newborn) là nguyên nhân chính gây sảy thai và tử vong ở trẻ sơ sinh. HDFN lần đầu tiên được nghĩ đến vào năm 1609 bởi bà đỡ đẻ người Pháp cho cặp song sinh: một trẻ bị phù và chết sớm sau sinh, trẻ còn lại vàng da tiến triển và tử vong vài ngày sau đó. Trong 300 năm tiếp theo, rất nhiều trường hợp tương tự được mô tả ở những trẻ không có cơ hội sống sót.

Cho đến những năm 1950, nguyên nhân của HDFN mới được làm rõ, đó là do hồng cầu của trẻ sơ sinh bị tấn công bởi kháng thể từ người mẹ. Sự tấn công này bắt đầu từ khi trẻ còn ở trong tử cung và do bất tương hợp giữa máu mẹ và máu con.

Đến những năm 1960, những thử nghiệm ở Mỹ và Vương quốc Anh sử dụng liệu pháp kháng thể để loại bỏ những kháng thể gây HDFN từ tuần hoàn người mẹ và phần lớn ngăn cản HDFN tiến triển. Đến những năm 1970, khám thai định kỳ sàng lọc tất cả phụ nữ chuẩn bị có thai để tìm những thai phụ có nguy cơ cao HDFN và điều trị dự phòng những đối tượng này, kết quả là giảm đáng kể tần suất HDFN, đặc biệt là những trường hợp nặng có thể gây sảy thai hoặc tử vong ở trẻ sơ sinh.

tanhuyet1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 28 Tháng 9 2020 14:34

Bệnh Melioidosis (bệnh Whitmore) (p.2)

  • PDF.

Bs Đinh thị Hằng Nga - 

4. CHẨN ĐOÁN

Cấy vi khuẩn là chẩn đoán xác định của bệnh melioidosis. B. pseudomallei không bao giờ là một phần của hệ thực vật ở người. Do đó, bất kỳ sự phát triển nào của vi khuẩn đều được chẩn đoán là mắc bệnh melioidosis. Cấy máu là mẫu phổ biến nhất để chẩn đoán, vì vi khuẩn có thể được phát hiện trong máu ở 50 đến 60% trường hợp mắc bệnh melioidosis. Các mẫu khác, chẳng hạn như cổ họng, gạc trực tràng, mủ từ ổ áp xe và đờm, cũng có thể được sử dụng để nuôi cấy. Khi vi khuẩn không phát triển từ những người bị nghi ngờ mắc bệnh melioidosis, nên tiến hành cấy lặp lại vì các lần cấy tiếp theo có thể trở nên dương tính. B. pseudomallei có thể được nuôi cấy trên thạch máu cừu, thạch MacConkey , môi trường Ashdown (chứa gentamicin ), [1]hoặc nước dùng của Ashdown (chứa colistin ).Các đĩa thạch cho bệnh melioidosis nên được ủ ở 37 ° C (98,6 ° F) trong không khí  và kiểm tra hàng ngày trong bốn ngày. Trên đĩa thạch, B. pseudomallei hình thành các khuẩn lạc màu kem, không tan trong máu sau 2 ngày ủ. Sau 4 ngày ủ, khuẩn lạc có biểu hiện khô và nhăn. Các khuẩn lạc B. pseudomallei được trồng trên môi trường Francis (một biến đổi của môi trường Ashdown với nồng độ gentamicin tăng lên 8 mg / l) có màu vàng. Đối với các phòng thí nghiệm nằm ngoài vùng lưu hành, thạch chọn lọc Burkholderia cepacia hoặc Pseudomonasthạch chọn lọc có thể được sử dụng nếu môi trường Ashdown không có sẵn. Điều quan trọng là không được hiểu sai sự phát triển của vi khuẩn là Pseudomonas hoặc Bacillus spp. Các công cụ sàng lọc sinh hóa khác cũng có thể được sử dụng để phát hiện B. pseudomallei , bao gồm bộ dụng cụ sinh hóa API 20NE hoặc 20E kết hợp với nhuộm Gram, xét nghiệm oxidase , các đặc điểm phát triển điển hình và khả năng kháng một số loại kháng sinh của vi khuẩn. Các phương pháp phân tử như đầu dò rDNA 16S và phản ứng chuỗi polymerase cũng có thể được sử dụng để phát hiện B. pseudomallei trong nuôi cấy, nhưng chúng chỉ có sẵn trong các phòng thí nghiệm nghiên cứu và tham khảo.[1]

benhwhit1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 26 Tháng 9 2020 15:22

Các dấu ấn sinh học mới liên quan đến chức năng thận

  • PDF.

Bs Lê Văn Tuấn - 

Dấu ấn sinh học là một chỉ số đo được về một trạng thái sinh học cụ thể, đặc biệt là dấu ấn liên quan đến nguy cơ, sự hiện diện hoặc giai đoạn của bệnh. Dấu ấn sinh học có thể được sử dụng lâm sàng để sàng lọc, chẩn đoán hoặc theo dõi hoạt động của bệnh và hướng dẫn điều trị nhắm mục tiêu phân tử hoặc đánh giá đáp ứng điều trị.

Phát hiện dấu ấn sinh học rất phức tạp và liên quan đến nhiều giai đoạn. Quá trình khám phá dấu ấn sinh học đã được mô tả là có 6 giai đoạn sau đây, mỗi giai đoạn đều có những thách thức riêng:

  1. Khám phá
  2. Trình độ chuyên môn
  3. Xác minh
  4. Nghiên cứu tối ưu hóa khảo nghiệm
  5. Xác nhận lâm sàng
  6. Thương mại hóa

Dấu ấn sinh học lý tưởng có các đặc điểm chung sau đây :

  • Không xâm lấn, dễ đo, không tốn kém, và tạo ra kết quả nhanh chóng 
  • Có sẵn các nguồn, chẳng hạn như máu hoặc nước tiểu 
  • Có độ nhạy cao, cho phép phát hiện sớm và không chồng chéo về giá trị giữa bệnh nhân mắc bệnh và kiểm soát sức khỏe 
  • Có độ đặc hiệu cao, được kiểm soát rất nhiều (hoặc được kiểm soát lại) đặc biệt trong các mẫu bệnh, và không bị ảnh hưởng bởi các điều kiện đi kèm 
  • Mức độ thay đổi nhanh chóng để phản ánh mức độ nghiêm trọng của bệnh và đáp ứng với điều trị 
  • Mức độ hỗ trợ phân tầng rủi ro và có giá trị tiên lượng về kết quả lâm sàng cứng 
  • Chính đáng về mặt sinh học và cung cấp cái nhìn sâu sắc về cơ chế bệnh tiềm ẩn

dauan1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 24 Tháng 9 2020 10:48

You are here Đào tạo Tập san Y học