• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

Biến chứng sau phẫu thuật hậu môn trực tràng

  • PDF.

Bs Lương Thành Vi - 

I. ĐẠI CƯƠNG

Bệnh nhân phẫu thuật hậu trực tràng thường xuyên gặp phải các biến chứng sau mổ, và những bệnh nhân ấy được chứng minh là có nguy cơ tử vong cao hơn, kết quả kém hơn về mặt ung thư học, các biến chứng kèm theo nhiều hơn và chất lượng cuộc sống suy giảm. Các biến chứng ngày càng được công nhận là thang điểm đánh giá chất lượng chăm sóc y tế, trình độ chuyên môn ở các trung tâm phẫu thuật. Việc cải tiến chất lượng trong phẫu thuật hậu môn trực tràng đã xác định được các phương pháp để giảm tỷ lệ biến chứng và cải thiện kết quả ở nhóm bệnh nhân này. Trong tương lai không xa sẽ tiếp tục xác định các phương pháp điều trị tốt nhất và các cách thức tiêu chuẩn hóa để đo lường chất lượng chăm sóc bệnh nhân nhằm giảm biến chứng hậu phẫu ở bệnh nhân phẫu thuật hậu môn trực tràng.

Phẫu thuật hậu trực tràng có liên quan mật thiết với các biến chứng và tử vong cao so với các chuyên ngành phẫu thuật tổng quát khác. Tỷ lệ tử vong chung sau phẫu thuật đại trực tràng từ 1% đến 16,4%, với tỷ lệ biến chứng tới 35%. Theo Alves A, Panis Y, Mathieu P, Mantion G et al, sau khi phẫu thuật đại trực tràng, bệnh nhân cần phải phẫu thuật lại chiếm từ 2% đến 5,8%. Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật đáng kể ở nhóm bệnh nhân này đã được nghiên cứu rộng rãi trong nỗ lực xác định các lĩnh vực để cải thiện chất lượng và ngày càng được quan tâm bởi các nhà lâm sàng cũng như các trung tâm y khoa. Tương tự phẫu thuật vùng hậu môn với tỉ lệ biến chứng cao, nhưng những biến chứng nặng lại không phổ biến ở bệnh nhân phẫu thuật vùng hậu môn.

bienchunghmtt

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 25 Tháng 7 2022 16:11

U mô đệm đường tiêu hoá

  • PDF.

Bs Huỳnh Minh Nhật - 

GIỚI THIỆU

U mô đệm đường tiêu hóa (GIST: Gastrointestinal stromal tumor) chiếm khoảng 1% các khối u đường tiêu hóa, sau ung thư biểu mô tuyến và u lympho, nhưng là khối u trung mô phổ biến nhất của đường tiêu hóa.

GIST phát sinh từ lớp cơ (mô đệm) thành ruột thường biểu hiện như khối u dưới niêm trong dạ dày và ruột non nhưng có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào của đường tiêu hóa và rất hiếm khi ở mạc treo, phúc mạc.

umodem

GIST kích thước khoảng 5 cm ở dạ dày gây xuất huyết tiêu hóa được phát hiện qua nội soi và phẫu thuật cắt bỏ thành công tại BVĐK tỉnh Quảng Nam

Hầu hết các GIST chứa các đột biến KIT hoặc thụ thể alpha của yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu (PDGFRA).

Ước tính có khoảng 3.300 đến 6.000 ca GIST mới mỗi năm ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh thực sự không được biết rõ, một phần vì nhiều khối u chưa xét nghiệm các dấu ấn đặc trưng cũng như các khối u nhỏ, không có triệu chứng thường chỉ phát hiện tình cờ.

Tỷ lệ mắc GIST khác nhau tùy theo vị trí địa lý nhưng xảy ra ở nam và nữ là ngang nhau. Hầu hết bệnh nhân phát hiện bệnh ở độ tuổi từ 50 đến 80. Phần lớn GIST là lẻ tẻ, hiếm khi có tính chất gia đình. GIST gia đình có thể biểu hiện dưới dạng nhiều khối u nguyên phát.

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 12 Tháng 7 2022 10:22

“Tiếp cận bệnh đơn gen": Thách thức và nhu cầu trong tầm soát trước sinh

  • PDF.

BS Nguyễn Thị Kiều Trinh - 

Bệnh đơn gen được biết đến là nhóm bệnh lý nguy hiểm. Theo thống kê, trong hơn 4.000 bệnh đơn gen được phát hiện thì có 25 bệnh di truyền trội (bệnh đơn gen trội) phổ biến nhất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của trẻ. Tần suất cộng gộp của 25 bệnh di truyền trội này theo ước tính là 1/600, cao hơn cả hội chứng Down (1/700).

Nằm trong khuôn khổ của chương trình đào tạo y khoa liên tục “Tiếp cận bệnh đơn gen: Thách thức và nhu cầu trong tầm soát trước sinh”, Viện Di truyền Y học – Gene Solutions chính thức ra mắt xét nghiệm gen Trisure Procare giúp thai phụ tầm soát toàn diện 03 loại bất thường di truyền phổ biến và nghiêm trọng nhất trong thai kỳ như: 25 bất thường số lượng nhiễm sắc thể, 9 bệnh đơn gen lặn và 25 bệnh trội đơn gen phổ biến, có tần suất cộng gộp cao hơn cả bệnh Down. Đây là bước tiến mới trong việc ứng dụng xét nghiệm trước sinh không xâm lấn NIPT tại Việt Nam.

3LOAIDT

Trisure Procare khắc phục được giới hạn của NIPT truyền thống, NIPT bỏ sót 19% các bất thường di truyền ở thai có độ mờ da gáy dày. Việc phát hiện thêm 25 bệnh / hội chứng có tần suất cao và nghiêm trọng có tỷ lệ cao hơn bệnh Down đóng vai trò quan trọng giúp đánh giá được tình trạng sức khỏe của thai nhi để từ đó có hướng can thiệp lâm sàng kịp thời và điều trị hiệu quả cho trẻ sau sinh; hoặc giúp mẹ chủ động quản lý thai kỳ hiệu quả hơn.

Nguồn: Tài liệu Hội thảo Chương trình đào tạo y khoa liên tục “Tiếp cận bệnh đơn gen: Thách thức và nhu cầu trong tầm soát trước sinh”, TP HCM, 21/5/2022, Viện Di truyền Y học – Gene Solutions

Muốn biết thêm chi tiết xin mời tham khảo tại đây.

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 09 Tháng 7 2022 15:50

Xét nghiệm sàng lọc chất ức chế đông máu

  • PDF.

Bs Đoàn Hoàng - 

I. Giới thiệu

Các chất ức chế bản chất là những kháng thể chống lại sự đông máu và đích của nó bao gồm:

  • Yếu tố đông máu như yếu tố VIII, IX…
  • Phospholipid ví dụ như kháng đông lupus (Lupus Anticoagulant) thực tế hầu hết các kháng đông lupus đều chống lại sự kết hợp của protein-phospholipid

sanglocDM1 

 

Hình ảnh minh họa chất ức chế yếu tố VIII, IX.

Một chất ức chế thường bị nghi ngờ từ bệnh sử lâm sàng hoặc kết quả xét nghiệm đông máu kéo dài [thường là APTT] không đúng trong hỗn hợp 50:50 với huyết tương bình thường. Các chất ức chế thường thấy nhất được nhắm mục tiêu chống lại phospholipid – Kháng đông lupus.

Các chất ức chế nhắm mục tiêu các yếu tố đông máu có thể phụ thuộc vào thời gian, ví dụ: Thuốc ức chế yếu tố VIII hoặc tác dụng tức thì, ví dụ: Thuốc ức chế yếu tố IX. Các kháng thể ức chế có thể hiện diện ở một cá nhân bị thiếu hụt yếu tố đông máu do di truyền, ví dụ: Bệnh Hemophilia A hoặc B - đây được gọi là các dị kháng thể nhưng cũng có thể phát sinh ở những người không có tiền sử mắc chứng rối loạn chảy máu di truyền - được gọi là các tự kháng thể.

Các kháng thể hướng đến FVIII (yếu tố VIII) hoặc FIX (yếu tố IX) nhưng không ức chế, tức là các kháng thể không trung hòa - đã được báo cáo.

Các chất ức chế yếu tố VIII thường hướng vào các domain A2, C1 và C2 của phân tử. Các chất ức chế yếu tố IX thường nhắm vào vùng GLA hoặc vùng protease của phân tử.

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 09 Tháng 7 2022 15:03

Đo bề dày nội trung mạc (IMT) trên siêu âm động mạch cảnh

  • PDF.

Bs. Phan Tuấn Kiệt – 

Đánh giá nguy cơ bệnh lý mạch máu não là một trong những chỉ định chính của siêu âm động mạch cảnh. Sự hiện diện của các mảng xơ vữa động mạch làm tăng nguy cơ, không chỉ đối với đột quỵ, mà còn đối với bệnh mạch vành và bệnh mạch máu ngoại vi. Trong khi việc sử dụng bề dày lớp nội trung mạc (IMT) thường quy để đánh giá nguy cơ còn nhiều tranh cãi, ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy IMT (nếu được đo chính xác) sẽ cung cấp thông tin có giá trị liên quan tới nguy cơ tim mạch. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học đã chứng minh mối liên quan với bệnh mạch vành, đột quỵ và bệnh mạch máu ngoại vi với IMT. Do đó, các phép đo bề dày lớp nội trung mạc nên là một phần của mọi cuộc kiểm tra siêu âm ngoài sọ, đặc biệt khi các phép đo IMT có thể dễ dàng thu được bằng siêu âm động mạch cảnh. Cũng cần lưu ý sự gia tăng bề dày lớp nội trung mạc cũng có thể được tìm thấy trong bệnh không xơ vữa động mạch (chẳng hạn như viêm mạch hoặc như một phản ứng với tăng huyết áp).

Yêu cầu về hình ảnh và đo đạc:

  • Sử dụng hình ảnh độ phân giải cao.
  • Tia siêu âm vuông góc với thành mạch.
  • Đo tại vị trí thành sau hoặc cả hai (thường dùng trong nghiên cứu)
  • Vị trí đo cách chỗ chia động mạch cảnh ít nhất 5 mm, tránh vị trí mảng vữa xơ và đo trên một đoạn thẳng (dài 10 mm).
  • Cần quan sát độ hồi âm của IMT (tăng hồi âm của lớp trung mạc)

h1

Hình 1: Sơ đồ vị trí đặt đầu dò trong khảo sát IMT động mạch cảnh.

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 05 Tháng 7 2022 19:41

You are here Đào tạo Tập san Y học