• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Ung thư buồng trứng

  • PDF.

Bs CKI Trần Quốc Chiến - Khoa Ung Bướu

PHẦN I

DỊCH TỄ HỌC, TỬ SUẤT VÀ NGUYÊN NHÂN

1/ DỊCH TỄ HỌC

Ung thư biểu mô buồng trứng là loại ung thư thường gặp nhất ở ống sinh dục nữ. Là loại ung thư thường gặp đứng hàng thứ 6 ở Hoa Kỳ. Tần suất là 33 trường hợp trên 100.000 phụ nữ ở độ tuổi ≥50; nguy cơ phát sinh ung thư buồng trứng trong đời sống của phụ nữ ở Hoa Kỳ xấp xỉ 1/70 (1,7%). 90% ung thư buồng trứng là biểu mô nguyên phát, chiếm khoảng 21.600 phụ nữ được chẩn đoán mắc ung thư buồng trứng vào năm 2008. Ung thư buồng trứng là nguyên nhân gây chết do ung thư đứng hàng thứ 5 ở phụ nữ, chiếm khoảng 4% các trường hợp ung thư mới được chẩn đoán và 5% các trường hợp tử vong do ung thư. Người ta đã ước đoán rằng ung thư buồng trứng gây ra 15.520 trường hợp tử vong vào năm 2008 ở Hoa Kỳ.

ungthuBTT1

Ung thư buồng trứng thường gặp hơn ở các nước công nghiệp đã phát triển, với tỷ lệ cao nhất ở phụ nữ các nước thuộc Scandinavia (21 trường hợp trên 100.000 ở Thụy Điển). Nguy cơ phát sinh ung thư buồng trứng trong đời sống cao nhất ở Thụy Điển (1,73%), tiếp theo là Hoa Kỳ (1,53%), vương quốc Anh (1,25%), Nam Âu (1,11%), Nam Mỹ (0,87%), Ấn Độ (0,75%), và Nhật Bản (0,47%). Ở hầu hết các vùng của Châu Âu và Bắc Mỹ, tần suất của ung thư buồng trứng đã không thay đổi trong suốt nhiều thập kỷ trước những năm 1990. Ung thư buồng trứng cũng thường gặp ở phụ nữ da trắng hơn phụ nữ Mỹ gốc Phi hoặc phụ nữ Mỹ gốc Á ở Hoa Kỳ, mặc dầu sự khác biệt là hạn hẹp. Ở phụ nữ da trắng, tần suất của ung thư buồng trứng được báo cáo là đã sụt giảm từ năm 1973 đến 1981, tăng lên từ 1981 đến 1991, và sau đó đảo ngược trở lại với sự sụt giảm có ý nghĩa từ 1991 đến 1997. Các khuynh hướng từ giữa năm 1992 và 1998 biểu lộ một sự sụt giảm có ý nghĩa về tần suất với 1,4% mỗi năm cho tất cả các chủng tộc kết hợp lại, cũng như sự sụt giảm hàng năm có ý nghĩa ở phụ nữ da trắng và phụ nữ Tây Ban Nha.

Ung thư buồng trứng là loại ung thư chiếm ưu thế ở thời kỳ cận mãn kinh và hậu mãn kinh, với 80 đến 90% các trường hợp xảy ra sau 40 tuổi. Tần suất cao hơn ở phụ nữ lớn tuổi, và độ tuổi trung bình tại thời điểm chẩn đoán là khoảng 62 tuổi. Ung thư buồng trứng có tính di truyền thường xảy ra sớm hơn khoảng 10 năm. Dữ liệu từ Gilda Radner Foundation Registry gợi ý tần suất ước đoán. Phần lớn ung thư buồng trứng xảy ra tản mác trong cộng đồng, và chỉ có khoảng 5 đến 10% là có tính gia đình.

2/ TỬ SUẤT

Ung thư buồng trứng chiếm khoảng hơn một nữa số trường hợp tử vong do ung thư xảy ra ở độ tuổi giữa 55 và 74, trong khi chỉ có xấp xỉ 1/4  số trường hợp tử vong do ung thư buồng trứng xảy ra ở phụ nữ có độ tuổi giữa 35 và 54. Tiên lượng cho phụ nữ mắc ung thư buồng trứng phụ thuộc vào giai đoạn bệnh tại thời điểm chẩn đoán. Các số liệu thống kê đã được báo cáo trong thời kỳ từ năm 1989 đến 1996 ước đoán tỷ lệ sống thêm 5 năm ở phụ nữ có tình trạng bệnh còn tại chỗ là 94,6%, so với 79,0% ở phụ nữ có tình trạng bệnh tại vùng và 28,2% cho phụ nữ có tình trạng bệnh ở giai đoạn tiến xa tại thời điểm chẩn đoán. Tỷ lệ sống thêm tương đối cho ung thư buồng trứng đã được cải thiện một cách đáng kể trong vài thập kỷ qua ở Hoa Kỳ, với xấp xỉ một nữa (50,4%) số phụ nữ được chẩn đoán ung thư buồng trứng giữa năm 1989 và 1996 sống thêm 5 năm. Thời gian sống thêm ở phụ nữ da trắng mắc ung thư buồng trứng ở Hoa Kỳ đã được báo cáo tốt hơn ở phụ nữ da đen (50,1 so với 47,5%), bất chấp độ tuổi hoặc giai đoạn bệnh tại thời điểm chẩn đoán. Ngược lại, phụ nữ Châu Á và Tây Ban Nha được báo cáo có giai đoạn bệnh tốt hơn tại thời điểm chẩn đoán và có tỷ lệ sống thêm 5 năm tốt hơn phụ nữ da trắng.

3/ NGUYÊN NHÂN

Nguyên nhân của ung thư buồng trứng không được hiểu biết một cách đầy đủ. nhiều nghiên cứu đã cố gắng chứng thực các mối liên quan có thể có giữa yếu tố môi trường, chế độ ăn, sinh đẻ, nội tiết, virus và di truyền với nguy cơ phát sinh ung thư buồng trứng. Cho đến bây giờ, yếu tố nguy cơ rõ ràng nhất đối với ung thư buồng trứng là kiểu hình có tính gia đình, được báo cáo với khoảng 7% phụ nữ mắc bệnh.

Các kiểu di truyền riêng biệt có ảnh hưởng đến nguyên nhân của ung thư buồng trứng. Khoảng 5% đến 10% ung thư buồng trứng có tính gia đình, với nguy cơ cao nhất được lưu ý ở phụ nữ có ≥2 người bà con họ hàng thế hệ thứ nhất mắc ung thư buồng trứng. Phụ nữ có các đột biến BRCA1 (nhiễm sắc thể 17) có nguy cơ cao mắc ung thư buồng trứng cao hơn đáng kể so với phụ nữ trong cộng đồng dân cư chung. Một tỷ lệ nhỏ hơn các trường hợp ung thư buồng trứng có tính gia đình có liên quan với các đột biến BRCA2 (nhiễm sắc thể 13) hoặc các gen sửa chữa bất điều hợp có liên quan với hội chứng ung thư đại trực tràng không đa polyp di truyền.

Các yếu tố nguy cơ ung thư buồng trứng đã được biết, chẳng hạn như chưa sinh đẻ, có thể có liên quan với ung thư buồng trứng có tính gia đình rõ ràng hơn là với ung thư buồng trứng tự phát. Schildkraut và cộng sự đã báo cáo rằng việc gia tăng các chu kỳ rụng trứng có liên quan với sự biểu lộ quá mức p53 trong các khối u buồng trứng, mặc dầu các tác giả khác không ủng hộ điều này. Đột biến p53 được thấy thường xuyên hơn ở các khối u không có tính chất nhầy, đặc biệt là các typ thanh dịch, và có thể là kết quả của sự tích lũy các lỗi sao chép DNA tự phát trong thời kỳ tăng sinh tế bào biểu mô bình thường có liên quan với sự rụng trứng. Sự biểu lộ quá mức p53 trong các tổn thương giáp biên, mặc dầu không thường gặp, được thấy có liên quan với tình trạng bệnh di căn. Những sự khác biệt về mô học theo các kiểu đột biến p53 có thể ảnh hưởng đến mối liên quan của ung thư buồng trứng với các yếu tố nguy cơ có liên quan với sụ rụng trứng, chẳng hạn như sinh đẻ, sử dụng thuốc ngừa thai đường uống, và cho con bú. Ngoài p53, sự bất hoạt gen ức chế  u PTEN thường được thấy trong các khối u dạng nội mạc tử cung và tế bào sáng. Ngoài các gen ức chế u, gen sinh ung thư cũng được thấy biểu lộ quá mức hoặc bị đột biến có liên quan với ung thư buồng trứng. Cho ví dụ, sự biểu lộ quá mức HER-2/neu trong mô buồng trứng có tính dự báo cho việc đáp ứng với điều trị và thời gian sống thêm kém hơn ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng.

Hai yếu tố nguy cơ ung thư buồng trứng được báo cáo đã cho thấy một cách phù hợp để làm giảm nguy cơ cho loại ung thư này là: sử dụng thuốc ngừa thai đường uống và gia tăng số lần mang thai. Các yếu tố nguy cơ khác cũng đã được nghiên cứu: sự hấp thụ bột talc có a-mi-ăng qua ngã âm đạo hoặc cổ tử cung, gia tăng chế độ ăn tiêu thụ galactose, và nồng độ galactose-1-phosphatase uridyltransferase thấp trong huyết thanh, tăng tiêu thụ mỡ, tiền sử kinh nguyệt, tuổi lần mang thai đầu tiên, vô sinh, và điều trị thay thế hormone. Tuy nhiên, không có yếu tố nào được thấy là phù hợp và có ý nghĩa ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư buồng trứng. Không có mối liên quan đã được thấy giữa ung thư buồng trứng và việc sử dụng coffee, rượu, hoặc thuốc lá. Cho đến bây giờ, mối tương quan rõ ràng nhất được thấy là giữa sự giảm nguy cơ và giảm sự rụng trứng; điều này đã được giải thích ở một phạm vi nào đó bởi hai giả thuyết: giả thuyết về sự tiết quá mức gonadotropin của Cramer và Welch và giả thuyết về sự rụng trứng không ngớt của Fathalla. 

Nguồn: The MD Anderson manual of medical oncology - Second edition


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 08 Tháng 5 2016 08:29

You are here Đào tạo Tập san Y học Ung thư buồng trứng