Bs Phạm Ngọc Na -
1. Tổng quan
Ung thư buồng trứng là loại ung thư phụ khoa phổ biến thứ hai ở các nước phát triển và phổ biến thứ ba ở các nước đang phát triển (ung thư cổ tử cung là phổ biến nhất) [2]. Phần lớn các khối u ác tính ở buồng trứng (95%) là biểu mô; phần còn lại phát sinh từ các loại tế bào buồng trứng khác (u tế bào mầm, u mô đệm dây sinh dục).
Tại Việt Nam theo GLOBOCAN 2022, mỗi năm có khoảng 1.400 trường hợp mới
mắc và khoảng 900 ca tử vong do ung thư buồng trứng. Tỷ lệ mắc bệnh chuẩn theo tuổi là 2,7/100.000 dân. Tỷ lệ mắc tăng dần theo tuổi, phần lớn ung thư biểu mô buồng trứng
gặp ở lứa tuổi hậu mãn kinh, tuổi mắc trung bình là 63. Ngược lại, ung thư tế bào mầm buồng trứng thường gặp ở phụ nữ trẻ, từ 15-20 tuổi[1].
Chỉ có khoảng 25% phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng giai đoạn giai đoạn I và giai đoạn II. Đối với những phụ nữ mắc ung thư buồng trứng giai đoạn IA, IB và/hoặc các khối u biệt hóa tốt, tiên lượng rất tốt với tỷ lệ sống còn toàn bộ ít nhất 90% chỉ sau phẫu thuật đơn thuần [3,4]. Đối với tất cả những bệnh nhân giai đoạn khác, hóa trị bổ trợ được khuyến khích.