• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo nhân viên BV

Phục hồi chức năng viêm quanh khớp vai

  • PDF.

KTV Trần Thị Minh Phương - 

II  ĐẠI CƯƠNG

Viêm quanh khớp vai là tình trạng tổn thương các mô mềm như gân, cơ, dây chằng, bao khớp quanh khớp vai, khiến người bệnh phải chịu đựng cơn đau dai dẳng và hạn chế vận động.

Viêm quanh khớp vai ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng vận động của người bệnh, nhất là hai cánh tay.

Nếu không được chẩn trị kịp thời có thể khiến người bệnh mất chức năng vận động, teo cơ, biến dạng khớp thậm chí là tàn phế suốt đời.

II. NGUYÊN NHÂN:

Chấn thương: tai nạn, va đập, ngã chống tay xuống đất… là một số chấn thương phổ biến gây tổn thương các tổ chức quanh vai.

Bệnh lý: Viêm quanh khớp vai có thể do thoái hóa dây chằng, thoát vị, thoái hóa đĩa đệm cổ, các bệnh lý thần kinh như chấn thương sọ não, viêm màng não… cũng có thể khiến các rễ thần kinh bị chèn ép và gây đau tại vùng quanh khớp vai.

Tuổi tác: Viêm quanh khớp vai thường xuất hiện ở người trên 50 tuổi. Khi đó các cấu trúc gân, bao khớp, túi thanh dịch… dễ dàng bị thoái hóa và gây viêm đau.

Đặc thù nghề nghiệp: tính chất công việc lặp đi lặp lại các động tác vai và cánh tay sẽ gây tổn thương vùng quanh khớp vai.

Thời tiết: Viêm quanh khớp vai còn do sự thay đổi thời tiết đột ngột từ nóng ẩm sang dạng lạnh khô cũng có thể là tác nhân kích thích cơn đau tại vị trí quanh khớp vai.

vqkvai

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 31 Tháng 10 2023 16:13

Hình ảnh hội chứng chẹn ổ cối – xương đùi (FAI syndrome)

  • PDF.

Bs Phan Tuấn Kiệt - 

Chẹn (chạm) ổ cối – xương đùi (femoroacetabular impingement) là một hội chứng lâm sàng trong đó các bất thường về giải phẫu của xương đùi và/hoặc ổ cối dẫn đến sự tiếp xúc bất thường trong quá trình chuyển động của khớp háng, đặc biệt là ở động tác gập và xoay, dẫn đến tổn thương sụn khớp, sụn viền ổ cối và đau. Ba loại bất thường về hình thái có thể xảy ra trong FAI: cam, pincer và hỗn hợp. Biến dạng cam được đặc trưng bởi hình thái bất thường của đầu trên xương đùi. Dạng pincer đặc trưng bởi sự tăng bao phủ toàn bộ hoặc khu trú của chỏm xương đùi bởi ổ cối. Loại FAI thứ ba, hỗn hợp, là sự kết hợp giữa hai dạng trên và thường gặp nhất.

fai

Xem tiếp tại đây

Điều trị dự phòng phơi nhiễm HIV (PEP)

  • PDF.

Bs Huỳnh Thị Tố Nữ - 

HIV là một loại vi rút tấn công hệ thống miễn dịch của cơ thể. Nếu HIV không được điều trị, nó có thể dẫn đến AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải).

Một khi người ta nhiễm HIV, họ sẽ mang nó suốt đời.

Các đường lây truyền của HIV

  • Truyền qua tiếp xúc sinh dục
  • Truyền qua máu
  • Truyền từ mẹ sang con

Phơi nhiễm HIV là tình huống thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên không phải trường hợp phơi nhiễm nào cũng dẫn tới bị nhiễm HIV. Hiểu rõ thông tin về các tình huống phơi nhiễm và điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (PEP) giúp chúng ta nắm được cách thức xử lý đúng và tận dụng thời gian vàng trong điều trị dự phòng.

1. PEP là gì?

PEP – Post-exposure Prophylasis là Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với HIV, bằng cách dùng thuốc kháng HIV (thuốc ARV) cho những người bị phơi nhiễm với HIV. Việc này cần được thực hiện càng sớm càng tốt, tốt nhất trong vòng 24 giờ và không muộn hơn 72 giờ sau phơi nhiễm.

Phơi nhiễm có thể xảy ra trong môi trường nghề nghiệp hoặc ngoài môi trường nghề nghiệp.

Xem tiếp tại đây

Phân loại mô bệnh học trên mẫu sinh thiết nhỏ u phổi, theo WHO 2021

  • PDF.

Bs Trần Thị Thùy Trang - 

1. Khái quát :

  • Nhấn mạnh nhiều hơn về tiến bộ trong vai trò của xét nghiệm sinh học phân tử.
  • Tiếp tục khuyến cáo về việc lưu trữ số liệu về các kiểu hình xâm lấn trong ung thư biểu mô tuyến dạng không chế nhầy, không xâm lấn để hệ thống phân giai đoạn TNM.
  • Cập nhật phân loại tân sinh thần kinh nội tiết phổi.
  • Ghi nhận u tuyến phế quản/ u nhú nhung mao chế nhầy là một phần mới hoàn toàn trong dưới nhóm u tuyến phổi.
  • Ghi nhận khối u không biệt hóa thiếu SMARCA4 ở lồng ngực.
  • Những mẫu u nhỏ nguyên phát hoặc di căn đến phổi được lấy thông qua nhiều phương pháp bao gồm chọc hút tế bào bằng kim nhỏ, phết tế bào, như đờm, dịch rửa phế quản, dịch chải phế quản, dịch rửa phế quản- phế nang.
  • Với mẫu sinh thiết nhỏ và mẫu tế bào học, “ung thư phổi không tế bào nhỏ” nên được phân loại thành các loại rõ ràng, như là “ ung thư biểu mô tuyến” hoặc “ung thư biểu mô tế bào gai”
  • Danh pháp “ung thư phổi không tế bào nhỏ-NOS” nên dùng ít nhất có thể, chỉ khi chẩn đoán chưa được rõ ràng.
  • Danh pháp “ ung thư biểu mô tuyến tại chỗ” và “ ung thư biểu mô tuyến xâm lấn tối thiểu” không nên dùng cho chẩn đoán mẫu sinh thiết nhỏ và tế bào học. Nếu kiểu hình không xâm lấn hiện diện trong mẫu sinh thiết nhỏ, tốt hơn nên xếp chúng vào kiểu hình lepidic. Tương tự, nếu tế bào học có “ ung thư biểu mô tuyến tại chỗ”, sau đó khối u nên được chẩn đoán “ ung thư biểu mô tuyến”, kèm theo có thể nêu ra một phần là “ ung thư biểu mô tuyến tại chỗ”.
  • Thuật ngữ ung thư biểu mô tế bào lớn không nên dùng trong chẩn đoán mẫu sinh thiết nhỏ và tế bào học, nên được giới hạn ở mẫu cắt bỏ khối u đã được loại trừ thành phần biệt hóa.
  • Trong sinh thiết khối u có đặc trưng ung thư dạng trung mô ( nhân đa hình thái rõ ràng, tế bào khổng lồ ác tính, tế bào hình thoi) nên được phân loại như ban đầu đã đề cập trước đây thay thế cho “ung thư biểu mô tuyến; ung thư biểu mô phổi không tế bào nhỏ, ưu thế ung thư biểu mô tuyến , ung thư biểu mô tế bào gai, ung thư biểu mô phổi không tế bào nhỏ, ưu thế ung thư biểu mô tế bào gai. Nếu những đặc trưng trên không hiện diện, thuật ngữ ung thư phổi không tế bào nhỏ-NOS nên được sử dụng, mô tả có đặc trưng ung thư dạng trung mô.
  • Các dấu ấn hóa mô miễn dịch thần kinh nội tiết nên được làm ở những ca hình thái thật sư gợi ý đến ung thư thần kinh nội tiết.

Xem tiếp tại đây

Sốc chấn thương tại khoa Cấp Cứu

  • PDF.

Bs Nguyễn Thị Hồng Hoa - 

Bệnh nhân chấn thương nặng đã và đang là vấn đề sức khỏe mà toàn thế giới quan tâm. Ở Việt Nam, số bệnh nhân chấn thương nhập viện nhiều, trong đó số ca tử vong chiếm tỉ lệ cao, đây là một thách thức lớn đối với nước ta. Tử vong này có thể ngăn ngừa bằng cách phát hiện, tiếp cận sớm, can thiệp đúng, kịp thời vào những giờ vàng.

1. Định nghĩa, phân loại:

Sốc là một bất thường của hệ tuần hoàn dẫn đến sự tưới máu cơ quan và oxy mô không đầy đủ.

Sốc chấn thương bao gồm : Sốc mất máu và không do mất máu.

Ở đại đa số bệnh nhân chấn thương, sốc là do mất máu.

Sốc mất máu: hay gặp , từ 5 vị trí mất máu nhiều là:

  • Khoang ngực
  • Khoang bụng
  • Chậu, Sau phúc mạc
  • Gãy xương
  • Mất máu ra ngoài

Sốc không mất máu : 5 nguyên nhân

  • Chèn ép tim cấp
  • Tràn khí màng phổi áp lực
  • Sốc thần kinh
  • Sốc tim: Đụng dập tim, thuyên tắc khí
  • Sốc nhiễm khuẩn

socct

Xem tiếp tại đây

You are here Đào tạo Đào tạo nhân viên BV