• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tác dụng phụ trên hệ tim mạch của điều trị ung thư (phần 1)

  • PDF.

Bs Nguyễn Hồng Phúc - 

Một số phương pháp điều trị ung thư có thể gây ra tác dụng phụ trên hệ tim mạch. Tác dụng phụ này tuy không thường gặp nhưng có thể gây những hậu quả sau: Ảnh hưởng tới việc điều trị, làm giảm chất lượng cuộc sống hay thậm chí là tử vong.

Dưới đây là một số bất thường về tim mạch mà người bệnh có thể gặp trong và/hoặc sau điều trị ung thư: Bệnh cơ tim và suy tim sung huyết, viêm cơ tim, bệnh mạch vành, rối loạn nhịp tim, bất thường màng ngoài tim.

Nếu như trong và sau điều trị, người bệnh có các triệu chứng sau: khó thở, choáng váng hoặc chóng mặt, cảm giác khó chịu ở ngực hoặc đau ngực, mệt mỏi, phù tay hoặc chân. Người bệnh cần thông báo ngay cho bác sĩ điều trị hoặc điều dưỡng chăm sóc nếu như có bất kỳ triệu chứng nào kể trên

Nguyên nhân gây tác dụng phụ lên hệ tim mạch:

1. Xạ trị vào vùng ngực.

Một loạt các khối u ác tính được điều trị hiệu quả bằng bức xạ ion hóa, có thể ảnh hưởng lâu dài đến tim mạch bao gồm tổn thương mạch máu, van tim, màng ngoài tim và cơ tim, làm suy yếu sức khỏe lâu dài của những người sống sót. Các nghiên cứu dựa trên dân số đã phát hiện tỷ lệ tử vong do tim mạch tăng lên hơn 15 năm sau khi xạ trị 15 năm. Xạ trị trung thất hoặc thành ngực có thể gây xơ hóa các mạch máu nhỏ, mô dẫn truyền và tế bào cơ tim, dẫn đến rối loạn nhịp tim, viêm màng ngoài tim và tràn dịch. Ngoài ra, xạ trị có thể làm tăng xơ vữa động mạch, dẫn đến thiếu máu cơ tim có thể gây suy tim. Đây là nguyên nhân góp phần làm tăng tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở những người sống sót sau ung thư hạch, bao gồm bệnh màng ngoài tim, bệnh van tim và bệnh xơ vữa động mạch. Ngăn ngừa bệnh tim do xạ trị phần lớn phụ thuộc vào việc tính toán liều xạ trị hiệu quả thấp nhất, vì độc tính trên tim tăng tuyến tính với liều bức xạ (không có ngưỡng an toàn rõ ràng). Xạ trị 3D sử dụng chùm bức xạ tập trung, xạ trị điều biến liều (IMRT) hoặc liệu pháp proton có thể giảm thiểu liều lượng bức xạ ion hóa tới các cấu trúc tim liền kề với khối u.

tacdungtim1

2. Anthracycline.

Các anthracyclin (bao gồm doxorubicin, epirubicin, daunorubicin và idarubicin) cùng các dẫn chất anthraquinon (như mitoxantron) là một trong các tác nhân hóa trị liệu có hiệu lực mạnh nhất, giữ vai trò nền tảng trong nhiều phác đồ điều trị ung thư, điển hình như bệnh bạch cầu lympho cấp tính ở trẻ em, bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính, ung thư hạch Hodgkin, sarcoma xương , u nguyên bào thần kinh và Ung thư vú. Mặc dù vậy, đã có ghi nhận tới 9% số bệnh nhân gặp các độc tính trên tim mạch liên quan đến nhóm hóa chất này. Anthracyclin cũng được coi là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới độc tính trên tim do hóa trị liệu, điển hình là suy giảm chức năng thất trái (LVEF), nhịp nhanh thất, rung nhĩ, rung thất và kéo dài khoảng QT hiệu chỉnh (QTc).

tacdungtim2

Cơ chế tác động lên tim của Doxorubicin

3. Liệu pháp kháng HER-2      

Các tác nhân nhắm mục tiêu vào thụ thể yếu tố tăng trưởng (HER-2) ở người có hiệu quả chống lại các loại khối u biểu hiện quá mức HER-2, bao gồm 20% bệnh ung thư vú, cũng như một số bệnh ung thư dạ dày và đại trực tràng. Các tác nhân nhắm mục tiêu HER-2 là có nguy cơ mắc bệnh cơ tim thường có thể đảo ngược, mặc dù sinh lý bệnh của độc tính này vẫn chưa rõ ràng. Trong các nghiên cứu trên chuột, HER-22 dường như rất quan trọng trong sự phát triển tim mạch, nhưng điều này không giải thích đầy đủ rối loạn chức năng tim liên quan đến hóa trị có thể đảo ngược được thấy ở người dùng trastuzumab, một kháng thể đơn dòng chống lại HER2. Siêu âm tim ba tháng một lần được khuyến cáo để phát hiện sự suy giảm EF không triệu chứng trong quá trình điều trị bằng trastuzumab, ít nhất là ở giai đoạn đầu của bệnh.

4. Cyclophosphamide

Rất hiếm khi bệnh nhân bị tổn thương tim mạch liên quan đến cyclophosphamide mà không sử dụng đồng thời anthracycline. Khi nhiễm độc tim do cyclophosphamide xảy ra, nó dường như thường biểu hiện sau 1–3 tuần sau khi tiêm một liều thuốc cao duy nhất (chẳng hạn như cấy ghép tế bào gốc) thay vì sau khi nhận nhiều liều có tổng liều cao tích lũy . Độc tính trên tim của cyclophosphamide có thể liên quan đến tổn thương nội tâm mạc, sau đó là sự thoát mạch của các chất chuyển hóa độc hại có thể làm tổn thương tế bào cơ tim. Rối loạn nhịp tim, suy tim sung huyết, viêm cơ tim, tràn dịch màng ngoài tim và tử vong có thể xảy ra.

5. Fluoropyrimidine

Các liệu pháp dựa trên fluoropyrimidine (ví dụ: 5-FU và capecitabine), là những chất thường được sử dụng trong điều trị khối u ác tính. Độc tính trên tim của 5-FU ảnh hưởng đến 1,2 đến 18% bệnh nhân được điều trị. Biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất của tình trạng nhiễm độc tim này là cơn đau thắt ngực, điển hình hoặc không điển hình , rối loạn nhịp tim, viêm cơ tim/viêm màng ngoài tim và suy tim cũng có thể xảy ra. Sự co mạch của mạch máu thượng tâm mạc và thậm chí cả vi tuần hoàn đã được coi là đóng một vai trò cơ chế bệnh lý quan trọng. Tuy nhiên, các thuốc giãn mạch đã không được chứng minh một cách nhất quán trong việc ngăn ngừa độc tính trên tim của 5-FU, cho thấy rằng có các cơ chế thay thế đang hoạt động và có thể là vai trò quan trọng hơn của vi tuần hoàn mạch vành và khả năng chống lại các nỗ lực giãn mạch. Capecitabine, một tiền chất dạng uống của 5-FU, có thể dẫn đến các biểu hiện tương tự với một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ độc tính trên tim thấp hơn.

6. Platinum

Platinum (ví dụ cisplatin, carboplatin và oxaliplatin) được sử dụng để điều trị nhiều loại khối u rắn bao gồm tinh hoàn, buồng trứng, cổ tử cung, bàng quang, phổi, đầu và cổ. Tác dụng lâu dài của bạch kim đã được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất ở bệnh nhân ung thư tinh hoàn, với độc tính mạch máu rõ ràng ở nam giới. Vì Platinum có thể đo được trong huyết tương vài năm sau khi điều trị, theo lý thuyết, các tác nhân này có thể liên tục tác động lên lớp nội mô trong nhiều năm, gây ra rối loạn chức năng nội mô. Hậu quả của điều này, bao gồm xơ vữa động mạch sớm, bệnh động mạch vành và các biến cố huyết khối tắc mạch, có thể trầm trọng hơn do yếu tố nguy cơ chuyển hóa bất lợi (ví dụ: tiểu đường, béo phì) xuất hiện ở một số bệnh nhân này.

7. Thuốc ức chế Tyrosine Kinase và Thuốc ức chế Proteasome

Thuốc ức chế tyrosine kinase (TKIs, ví dụ: sunitinib, sorafenib, pazopanib, axitinib, vandetanib, cabozantinib, ponatinib và regorafenib) và kháng thể đơn dòng (ví dụ: bevacizumab) ức chế thụ thể yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh ác tính. Những tác nhân này có nguy cơ tăng huyết áp động mạch, suy tim có triệu chứng hoặc không có triệu chứng và kéo dài QT. Điều quan trọng là tỷ lệ nhiễm độc tim mạch khác nhau đáng kể giữa các TKI, với nhiều con đường liên quan đến nhiễm độc tim TKI. Các chất ức chế proteasome (ví dụ bortezomib và carfilzomib, nhưng đặc biệt là carfilzomib), được sử dụng để điều trị đa u tủy và các bệnh lý liên quan, cũng được biết là làm tăng nguy cơ rối loạn chức năng cơ tim.

Osimertinib, TKI thế hệ thứ ba, gần đây đã được phê duyệt cho liệu pháp đầu tay cho điều trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ tiến triển, đã được báo cáo là gây ra các biến cố bất lợi cho tim bao gồm nhồi máu cơ tim cấp tính (MI), suy tim với LVEF giảm và bệnh van tim trong khoảng 4–5% bệnh nhân.

Ibrutinib, một chất ức chế tyrosine kinase (BTK) của Bruton, điều trị hiệu quả các khối u ác tính về huyết học khác nhau, nhưng rung nhĩ có thể xảy ra ở 4–16% bệnh nhân dùng ibrutinib. Vì ung thư gây ra tình trạng tăng đông máu, rung nhĩ có liên quan đến nguy cơ thuyên tắc huyết khối ở những bệnh nhân này cao hơn so với dân số chung. Điều đáng lưu ý là ibrutinib cũng làm suy yếu quá trình kích hoạt tiểu cầu, làm tăng nguy cơ chảy máu khi dùng thuốc chống đông máu.

8. Thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch

Với việc sử dụng rộng rãi các thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch trong điều trị ung thư, các tác dụng phụ liên quan đến miễn dịch đã được nghiên cứu trong những năm trở lại đây. Viêm cơ tim là một trong những bệnh ít phổ biến nhất (chỉ xảy ra ở 0,6–1% số người được điều trị, nhưng là một trong những tác dụng phụ nghiêm trọng nhất với tỷ lệ tử vong được báo cáo trong khoảng 40–60%.

Nguy cơ viêm cơ tim do thuốc ức chế điểm kiếm soát miễn dịch cao hơn khi liệu pháp kháng CTLA-4 được kết hợp với liệu pháp kháng PD-L1 so với đơn trị liệu kháng PD-L1 và nguy cơ có thể tăng lên đối với bệnh nhân mắc bệnh tự miễn và đái tháo đường.

Lược dịch từ:

  1. Cardiovascular Health during and after Cancer Therapy, Kathryn J. Ruddy,1,* Shruti R. Patel,2 Alexandra S. Higgins,1 Saro H. Armenian,3 and Joerg Herrmann4 - https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC7763346/

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 22 Tháng 3 2023 16:40

You are here Tin tức Y học thường thức Tác dụng phụ trên hệ tim mạch của điều trị ung thư (phần 1)