• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Chào mừng ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUẢNG NAM LẦN THỨ XVII, NHIỆM KỲ 2025-2030 - Ngày 19/06/2025

Đào tạo NCKH

Nội soi bàng quang với ánh sáng xanh, phương pháp mới để chẩn đoán ung thư bàng quang không xâm lấn cơ

  • PDF.

Bs Trần Lê Pháp - 

1. Tổng quan về nội soi bàng quang

Nội soi bàng quang là phương pháp quan trọng trong chẩn đoán và theo dõi ung thư bàng quang, đặc biệt là ung thư bàng quang không xâm lấn cơ (NMIBC). Truyền thống, nội soi bàng quang bằng ánh sáng trắng (White-Light Cystoscopy - WLC) được xem là tiêu chuẩn vàng. Tuy nhiên, do khả năng phát hiện tổn thương hạn chế, phương pháp này có thể bỏ sót các tổn thương nhỏ hoặc dạng carcinoma in situ (CIS).

Nội soi bàng quang với ánh sáng xanh (Blue-Light Cystoscopy - BLC) là một phương pháp cải tiến, giúp tăng độ nhạy trong phát hiện ung thư bàng quang. Công nghệ này sử dụng chất cản quang như hexaminolevulinate (HAL) hoặc 5-aminolevulinic acid (5-ALA), giúp mô ung thư phát sáng đỏ khi được chiếu ánh sáng xanh, qua đó cải thiện khả năng phát hiện tổn thương.

2. Cơ chế hoạt động của nội soi bàng quang với ánh sáng xanh

Nội soi bàng quang ánh sáng xanh hoạt động dựa trên nguyên lý quang động học. Sau khi bệnh nhân được đặt một chất tiền quang động vào bàng quang (HAL hoặc 5-ALA), các tế bào ung thư sẽ hấp thụ chất này và chuyển hóa thành protoporphyrin IX (PPIX). Khi chiếu ánh sáng xanh với bước sóng 380-450 nm, PPIX sẽ phát huỳnh quang màu đỏ, giúp bác sĩ dễ dàng xác định vùng tổn thương.

nsbangquang

Đọc thêm...

Gây mê bệnh nhân tiền sản giật (phần 1)

  • PDF.

Bs Hồ Kiến Phát - 

I.Đại cương

1. Tiền sản giật

Tiền sản giật (TSG) là một rối loạn chức năng nhiều cơ quan liên quan đến thai nghén đặc trưng với sự xuất hiện triệu chứng tăng huyết áp và protein niệu hoặc các triệu lâm sàng liên quan đến tổn thương nhiều cơ quan do ảnh hưởng của TSG. Tiền sản giật -sản giật thường xảy ra sau tuần thứ 20 của thai kỳ và kết thúc 6 tuần sau sinh. Tuy nhiên, TSG nặng có thể tiến triển sớm hơn với sự hiện diện của bệnh lá nuôi

Theo khuyến cáo ACOG 2020, protein niệu không còn là tiêu chuẩn bắt buộc phải có trong chẩn đoán tiền sản giật.

mesan

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 12 Tháng 2 2025 11:28

Hội chứng ống cổ chân sau

  • PDF.

Bs Nguyễn Minh Tú - 

1. Đường hầm xương cổ chân là gì?   

Đường hầm cổ chân nguồn gốc của hội chứng đường hầm cổ chân là một không gian hẹp nằm ở bên trong mắt cá trong , được gọi là đường hầm cổ chân. Đường hầm được bao phủ bởi một dây chằng dày (mạc giữ gân gấp) bảo vệ các cấu trúc chứa trong đường hầm bó mạch thần kinh chày sau, gân chày sau,gân gấp ngón cái dài ,gân gấp chung các ngón. Một trong những cấu trúc này là dây thần kinh chày sau, trung tâm của hội chứng đường hầm cổ chân sau.

2. Hội chứng ống cổ chân là gì?

Hội chứng ống cổ chân là tình trạng chèn ép dây thần kinh chày sau, gây ra các triệu chứng ở bất kỳ vị trí nào dọc theo đường đi của dây thần kinh chạy từ bên trong mắt cá trong đến bàn chân.

 Dây thần kinh chày sau có ba nhánh chính : thần kinh gót, thần kinh gan chân trong và thần kinh gan chân ngoài. Có hai cấu trúc chính chèn ép dây thần kinh chày: (1) mạc giữ gân gấp và (2) cân cơ dạng ngón chân cái nằm phía trên, chia các dây thần kinh gan bàn chân trong và ngoài

Hội chứng ống cổ chân tương tự như hội chứng ống cổ tay. Cả hai rối loạn đều phát sinh do chèn ép dây thần kinh trong không gian hạn chế.

ongcochan

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 12 Tháng 2 2025 11:27

Chiến lược điều trị ung thư biểu mô vòm họng giai đoạn tiến xa

  • PDF.

Bs CK2 Trần Quốc Chiến - 

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư biểu mô vòm họng (NPC – Nasopharyngeal carcinoma) là một lại ung thư hiếm gặp có tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi trên toàn thế giới < 1/100.000, với 133.354 trường hợp mắc mới và 80.000 trường hợp tử vong mỗi năm ở toàn bộ 185 quốc gia vào năm 2020. Ở Đông Nam Á, ung thư biểu mô vòm họng có tỷ lệ mắc mới hàng năm là 10 - 30/100.000. Với những vùng có tỷ lệ hiện mắc cao (chẳng hạn như Bắc Mỹ, Đông Á), tỷ lệ mắc mới là từ 4 - 12/100.000 dân, thay đổi khác nhau theo từng vùng. Bởi do những thay đổi về phong cách sống và môi trường, tỷ lệ mắc mới ở Hong Kong, một vùng có tỷ lệ hiện mắc cao, đã sụt giảm 30% trong 20 năm qua so với những năm 1980, và tỷ lệ mắc mới đang sụt giảm trên toàn thế giới. Tỷ lệ sống còn cũng tăng lên do sự cải thiện về chẩn đoán hình ảnh, phát hiện sớm thông qua sàng lọc khối u và sự kiểm soát khối u cũng đã được cải thiện với việc áp dụng kỹ thuật xạ trị điều biến cường độ (IMRT – Intensity Modulated Radiotherapy). Tuy nhiên, 75,4% các trường hợp NPC vẫn còn được phát hiện ở giai đoạn tiến xa (giai đoạn III - IV). Tỷ lệ sống còn 10 năm đối với giai đoạn III và IV là 74 - 79% và 46 - 56%, lần lượt theo thứ tự. Tỷ lệ sống còn 10 năm đã được báo cáo là đặc biệt kém ở các trường hợp NPC giai đoạn IV [4], [7].

Đặc điểm của NPC bao gồm khối u có liên quan với vi rút Epstein-Barr (EBV – Epstein-Barr virus) và tỷ lệ hiện mắc cao ở một số vùng. NPC được phân loại theo mô bệnh học thành các loại tế bào sừng hóa, không sừng hóa và tế bào đáy. Trong các loại tế bào không sừng hóa, 69 - 93% các khối u được biết là có liên quan với EBV. Nhiễm vi rút sinh u nhú ở người (HPV – Human papilloma virus) cũng được biết là có liên quan với NPC trong một vài báo cáo, tuy nhiên, đáp ứng với điều trị thì vẫn còn lẫn lộn. Theo đó, hướng dẫn của Mạng lưới ung thư toàn diện Hoa Kỳ (NCCN – National Comprehensive Cancer Network) không khuyến nghị xét nghiệm nhiễm HPV. Sinh bệnh học của các khối u không liên quan với vi rút thì vẫn còn không rõ [4].

head-and-neck-cancers

Xem tiếp tại đây

Giảm tiểu cầu do heparin

  • PDF.

CN. Trịnh Ngọc Phước - 

Tổng quan

Heparin là một loại thuốc phổ biến đã có từ hàng thế kỷ và vẫn đặc biệt liên quan đến y học hiện đại. Heparin không phân đoạn (UFH) và heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong nhiều bối cảnh nội trú và ngoại trú. Giảm tiểu cầu do heparin (HIT) vẫn là một trong những biến chứng quan trọng nhất và các bác sĩ lâm sàng phải luôn cảnh giác với sự phát triển của tác dụng phụ này. HIT là do các kháng thể hướng đến phức hợp heparin-protein tiểu cầu yếu tố tiểu cầu 4 (PF4). Mặc dù các kháng thể này xảy ra với một số tần suất ở nhiều bệnh nhân, nhưng một số ít bệnh nhân phát triển các biến chứng có liên quan đến lâm sàng, bao gồm HIT có huyết khối, được gọi là HITT. Bất kể bệnh nhân có xác định được huyết khối trong bối cảnh HIT hay không, thì HIT đơn thuần là trạng thái tăng đông và phải bắt đầu dùng thuốc chống đông thay thế ngay lập tức.

Tỷ lệ giảm tiểu cầu do heparin (HIT) ở các quần thể nói chung và đặc biệt

HIT được ước tính xảy ra ở 0,1–5% bệnh nhân dùng liều điều trị heparin. Tỷ lệ mắc bệnh này dựa trên kết quả của gần đây khi Dhakal và cộng sự báo cáo kết quả của một nghiên cứu lớn thông qua mẫu bệnh nhân nội trú toàn quốc (NIS). HIT được chẩn đoán ở 0,065% bệnh nhân nội trú hoặc 1/1500 lượt nhập viện. Bệnh nhân trên 50 tuổi có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc HIT hơn, với mỗi năm tuổi tăng lên mang lại tỷ lệ mắc bệnh đã điều chỉnh cao hơn đáng kể. Trong nghiên cứu phụ nữ ít có khả năng mắc HIT hơn so với nam giới nói chung; tuy nhiên, điều này trái ngược với các nghiên cứu trước đây chứng minh tỷ lệ mắc HIT cao hơn ở phụ nữ. Nghiên cứu của NIS đã báo cáo rằng phụ nữ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn đáng kể trong các phân nhóm phẫu thuật tim phổi (CBP) và chạy thận nhân tạo cũng như trong bối cảnh phẫu thuật mạch máu.

HIT1

Xem tiếp tại đây

 
You are here Đào tạo