• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Đào tạo NCKH

Các yếu tố nguy cơ gây ung thư biểu mô tế bào gan

  • PDF.

Bs. Lê Trung Nghĩa - 

Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là khối u ác tính nguyên phát ở gan thường phát triển trong bối cảnh bệnh gan mãn tính, đặc biệt ở những bệnh nhân bị xơ gan hoặc nhiễm virus viêm gan B mãn tính. Khoảng 75% khối u gan nguyên phát là HCC, trong đó ung thư đường mật chiếm phần lớn các trường hợp còn lại

DỊCH TỂ HỌC:

Tỷ lệ mắc và tử vong: Ung thư gan và đường mật trong gan là bệnh ác tính được chẩn đoán phổ biến thứ sáu trên toàn thế giới, với khoảng 900.000 ca mới được báo cáo vào năm 2020. Ngoài ra, ung thư gan nguyên phát là nguyên nhân gây tử vong liên quan đến ung thư phổ biến thứ ba trên toàn thế giới, với hơn 830.000 ca tử vong vào năm 2020 . Với tỷ lệ sống sót sau năm năm là khoảng 21%, ung thư gan là một trong những khối u đường tiêu hóa gây tử vong nhiều nhất. Tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong do ung thư gan nguyên phát đã tăng lên ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm Bắc Mỹ, Mỹ Latinh và Trung Âu. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong do ung thư gan đã thay đổi theo thời gian , ban đầu tăng trong nhiều thập kỷ nhưng sau đó ổn định hoặc giảm. Những xu hướng này được cho là do phát hiện ngày càng nhiều HCC tại chỗ.  

Biến thể địa lý: Tỷ lệ mắc HCC trên toàn thế giới thay đổi tùy theo vị trí địa lý. Người ta ước tính rằng 72% các trường hợp HCC xảy ra ở Châu Á, 10% ở Châu Âu, 8% ở Châu Phi, 5% ở Bắc Mỹ và 5% ở Châu Mỹ Latinh. Mông Cổ có tỷ lệ mắc ung thư gan cao nhất (93,7 trên 100.000), nhưng Trung Quốc có số ca mắc lớn nhất do tỷ lệ mắc cao (18,3 trên 100.000) và dân số đông. Sự khác biệt về tỷ lệ mắc HCC có thể là do sự khác biệt theo khu vực về mức độ tiếp xúc với vi-rút viêm gan và các tác nhân gây bệnh trong môi trường. Ví dụ, tần suất người mang vi-rút viêm gan B tương đối cao ở những khu vực có tỷ lệ mắc HCC cao hơn so với những khu vực có tỷ lệ mắc thấp hơn.

kgan1

Xem tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 05 Tháng 3 2025 15:04

Rút ống nội khí quản sau gây mê

  • PDF.

Bs CK2 Lê Tăn Tịnh - 

Rút ống nội khí quản ít thu hút sự quan tâm hơn so với đặt ống nội khí quản.

Nghiên cứu, hướng dẫn và các chỉ định lâm sàng thường tập trung vào việc quản lý đường thở khi bắt đầu gây mê, và hiếm khi các thách thức của việc rút ống nội khí quản nhận được sự chú ý tương tự. Mặc dù sự chú trọng vào việc đặt ống nội khí quản, nhưng việc rút ống nội khí quản và sự hồi phục sau gây mê toàn thân không phải không có rủi ro. Dự án Kiểm toán Quốc gia lần thứ 4 của Hội đồng Gây mê Hoàng gia và Hiệp hội Đường thở Khó (DAS) (NAP4) đã phát hiện rằng gần một phần ba các biến chứng đường thở lớn xảy ra trong quá trình hồi phục và khi thức dậy từ gây mê. Hai trường hợp dẫn đến tử vong và một trường hợp bị tổn thương não nghiêm trọng, cùng với 10 ca phải can thiệp đường thở phẫu thuật khẩn cấp. Bệnh nhân phẫu thuật vùng miệng hoặc đầu và cổ chiếm gần 50% các trường hợp này, và béo phì là một tình trạng bệnh lý đi kèm phổ biến. Một khảo sát triển khai bởi Asai và các cộng sự cho thấy các biến chứng hô hấp sau khi rút ống nội khí quản và trong đơn vị chăm sóc hậu phẫu (PACU) phổ biến hơn nhiều so với các biến chứng xảy ra khi đặt ống nội khí quản. Dữ liệu từ cơ sở dữ liệu yêu cầu bảo hiểm của Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ (ASA) cho thấy 18% yêu cầu bảo hiểm cho trường hợp tử vong hoặc tổn thương não do quản lý đường thở khó đã xảy ra trong hoặc sau khi rút ống nội khí quản. Mặc dù các biến chứng khi hồi phục và trong PACU có thể có vẻ nhỏ và tạm thời, nhưng dự án NAP4 cho thấy chúng có thể dẫn đến chấn thương lâu dài và tử vong.

rutnkq

Xem tiếp tại đây

Tiếp cận trong phòng ngừa và điều trị băng huyết sau sinh: Tổng quan hệ thống về các tiến bộ trước đây, các phát triển gần đây và những thực hành tốt nhất

  • PDF.

Bs Thái Thị Phương Oanh - 

Tóm tắt

Băng huyết sau sinh (Postpartum hemorrhage: PPH) vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ trên toàn thế giới, trong đó đờ tử cung là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm tuổi mẹ cao, rối loạn đông máu, sót nhau thai và giai đoạn ba của chuyển dạ kéo dài. Mặc dù có thể phòng ngừa thông qua phát hiện sớm và xử trí kịp thời, PPH vẫn có thể xảy ra ngay cả khi không có yếu tố nguy cơ rõ ràng. Vì lý do này, cần có sự chuẩn bị đầy đủ và chiến lược quản lý toàn diện.

Nghiên cứu này phân tích các phương pháp phòng ngừa và điều trị PPH được báo cáo từ năm 2006 đến 2023, bao gồm các biện pháp phẫu thuật và không phẫu thuật. Kết quả cho thấy sự có mặt của các đội kiểm soát chuyên biệt đóng vai trò quan trọng trong quản lý PPH hiệu quả. Hơn nữa, các kỹ thuật phát hiện sớm đã giúp giảm đáng kể tỷ lệ tử vong, nhấn mạnh vai trò quan trọng trong chăm sóc sản phụ.

1

Xem tiếp tại đây

Các thủ thuật chẩn đoán bệnh lý tuyến vú

  • PDF.

BS Nguyễn Thị Kiều Trinh - 

Để chẩn đoán bệnh lý tuyến vú, sau khi chẩn đoán bằng hình ảnh học, các nhà lâm sàng có thể thực hiện các thủ thuật chẩn đoán tế bào học và mô bệnh học. Ngoài việc chẩn đoán, thủ thuật sinh thiết tuyến vú bằng hút chân không có thể vừa chẩn đoán và điều trị.

  • Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA): Thủ thuật đơn giản với kim đầu nhỏ (tương đương kích thước kim lấy máu) cho phép bác sĩ lấy các tế bào của khối u trong mô vú đi làm xét nghiệm.
  • Sinh thiết vú bằng kim lớn (CNB) hay sinh thiết lõi: Kỹ thuật này sử dụng một loại kim dài hơn, kích thước để lại trên da cỡ bằng hạt mụn nhỏ.
  • Sinh thiết tuyến vú bằng thiết bị hút chân không (VAB): Kỹ thuật sinh thiết vú có hỗ trợ hút chân không có sự tương đồng với kỹ thuật sinh thiết bằng kim lớn. Tuy nhiên với sự hỗ trợ nhẹ nhàng của một máy hút chân không, mô vú được hút vào đầu kim khá nhiều, nhưng kim chỉ cần đưa qua da một lần khiến cho tổn thương để lại trên da rất nhỏ, gần như khó thấy.
  • Sinh thiết qua phẫu thuật, còn gọi sinh thiết qua mổ hở: Khi sang thương của người bệnh quá lớn hay quá nghi ngờ ác tính, bác sĩ sẽ dùng dao để tạo một đường rạch trên da vú để lấy sinh thiết hoặc loại bỏ khối u đó một cách triệt để. Sau đó sẽ làm xét nghiệm mô học để đánh giá mức độ lành hay ác của khối này.

sinhthietvu

Sinh thiết vú là một kỹ thuật cần độ chính xác cao. Do đó, hầu như các trường hợp lấy mẫu mô đều được bác sĩ thực hiện với sự định hướng của siêu âm vú, nhũ ảnh (chụp Xquang tuyến vú) hoặc trong một vài trường hợp là chụp cộng hưởng từ tuyến vú (MRI).

Muốn biết thêm chi tiết, xin tham khảo bài tại đây.

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 25 Tháng 2 2025 15:36

Cấy máu

  • PDF.

CN Nguyễn Văn Thọ - 

Cấy máu là kỹ thuật xét nghiệm y khoa dùng để phát hiện vi khuẩn hoặc vi nấm trong máu của người bệnh.Trong điều kiện bình thường, máu không chứa vi sinh vật. Sự hiện diện của chúng trong máu có thể chỉ ra tình trạng nhiễm trùng máu như: nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm nấm huyết. Bằng cách nuôi cấy máu, vi khuẩn có thể được xác định và xét nghiệm khả năng kháng thuốc kháng sinh, cho phép bác sĩ lâm sàng đưa ra phương pháp điều trị hiệu quả.

Để thực hiện xét nghiệm, máu được lấy vào các lọ chứa môi trường dinh dưỡng dạng lỏng giúp tăng cường sự phát triển của vi khuẩn, được gọi là môi trường nuôi cấy. Thông thường, hai lọ được thu thập trong một lần cấy máu, một lọ được thiết kế cho các sinh vật hiếu khí cần oxy và lọ thứ hai lọ dành cho các sinh vật kỵ khí không cần oxy. Hai lọ này được gọi là một bộ cấy máu. Đôi khi, hai bộ cấy máu được thu thập từ hai vị trí lấy máu khác nhau. Nếu một sinh vật chỉ xuất hiện ở một trong hai bộ, thì khả năng cao là nó bị nhiễm hệ vi khuẩn trên da hơn là nhiễm trùng máu thực sự. Kết quả âm tính giả có thể xảy ra nếu mẫu được lấy sau khi người đó đã dùng thuốc kháng sinh hoặc nếu lọ không chứa đủ lượng máu được khuyến nghị từ nhà sản xuất. Một số sinh vật không phát triển tốt trong nuôi cấy máu và cần các kỹ thuật đặc biệt để phát hiện.

Các chai cấy máu được đặt vào máy cấy máu trong vài ngày để các sinh vật phát triển. Nếu phát hiện thấy sự phát triển của vi khuẩn, một phiến đồ nhuộm Gram được tiến hành từ chai nuôi cấy để xác nhận rằng các sinh vật có mặt và cung cấp thông tin sơ bộ về danh tính của chúng. Sau đó, máu được cấy chuyển lại, nghĩa là máu được cấy lên một đĩa thạch để phân lập các khuẩn lạc vi khuẩn để xác định đầy đủ và thử nghiệm khả năng nhạy cảm với thuốc kháng sinh. Vì nhiễm trùng máu cần được chẩn đoán và điều trị nhanh chóng, nên các phương pháp xét nghiệm nhanh đã được phát triển bằng cách sử dụng các công nghệ như phản ứng chuỗi polymerase và MALDI-TOF MS .

caymau

Hình ảnh Hệ thống máy cấy máu tự động BD Bactec FX40 tại Khoa Vi Sinh Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam

Xem tiếp tại đây

You are here Đào tạo