• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Chương trình “Phẫu thuật miễn phí cho trẻ khe hở môi – vòm miệng năm 2025” – Đăng ký, khám sàng lọc lần 1 từ 05/05/2025 đến 30/05/2025 – Liên hệ: Bs CK2 Nguyễn Minh Đức 0905309192 ------------ Chào mừng HỘI NGHỊ KHOA HỌC MẠNG LƯỚI CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH LẦN THỨ 7 - Ngày 06-07/06/2025 tại TP Tam Kỳ - Quảng Nam

Y học thường thức

Cơ chế phân tử của thuốc Molnupiravir kháng vi rút corona đã được sáng tỏ

  • PDF.

Bs Lê Văn Tuấn - 

Hoa Kỳ gần đây đã bảo đảm 1,7 triệu liều hợp chất có thể giúp điều trị bệnh nhân Covid-19. Trong các nghiên cứu sơ bộ, Molnupiravir làm giảm sự lây truyền của coronavirus Sars-CoV-2. Các nhà nghiên cứu tại Viện Hóa lý Sinh Max Planck ở Göttingen và Đại học Julius Maximilians Würzburg hiện đã làm sáng tỏ cơ chế phân tử cơ bản. Tác nhân kháng vi-rút kết hợp các khối xây dựng giống RNA vào bộ gen RNA của vi-rút. Nếu vật liệu di truyền này được nhân rộng hơn nữa, các bản sao RNA bị lỗi sẽ được tạo ra và mầm bệnh không thể lây lan nữa. Molnupiravir hiện đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng.

Kể từ khi đại dịch corona bắt đầu, nhiều dự án khoa học đã đặt ra để điều tra các biện pháp chống lại loại virus mới này. Hiện tại, các nhà nghiên cứu đang phát triển nhiều loại vắc-xin và thuốc khác nhau - với các mức độ thành công khác nhau. Năm ngoái, thuốc kháng vi-rút Remdesivir đã gây chú ý khi trở thành loại thuốc đầu tiên chống lại Covid-19 được phê duyệt. Các nghiên cứu, bao gồm cả công trình của Patrick Cramer tại Viện Hóa lý Sinh Max Planck ở Göttingen và Claudia Höbartner tại Đại học Julius Maximilians Würzburg (Đức), cho thấy tại sao thuốc lại có tác dụng khá yếu đối với vi rút.

Molnupiravir, một ứng cử viên thuốc kháng vi rút khác, ban đầu được phát triển để điều trị bệnh cúm. Dựa trên các thử nghiệm lâm sàng sơ bộ, hợp chất này hứa hẹn có hiệu quả cao đối với Sars-CoV-2. “Biết rằng một loại thuốc mới đang hoạt động là điều quan trọng và tốt. Tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phải hiểu cách Molnupiravir hoạt động ở cấp độ phân tử để có được những hiểu biết sâu sắc hơn cho quá trình phát triển thuốc kháng vi-rút, ”Giám đốc Max Planck Cramer giải thích. "Theo kết quả của chúng tôi, Molnupiravir hoạt động theo hai giai đoạn."

molnu

Ứng cử viên thuốc kháng vi-rút molnupiravir (màu vàng) được kết hợp vào RNA của vi-rút, nơi nó dẫn đến các đột biến (màu tím) và cuối cùng ngăn chặn vi-rút nhân lên.

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 23 Tháng 8 2021 17:20

Chăm sóc phụ nữ mang thai trong mùa dịch Covid-19

  • PDF.

Bs Nguyễn Thị Kiều Trinh - 

(QNO) - Nhiều người bày tỏ quan tâm, lo lắng về những vấn đề chăm sóc sức khỏe thai kỳ trong mùa dịch Covid-19. Ngoài những lưu ý về chăm sóc thai kỳ thông thường, cần lưu ý những vấn đề liên quan đến phòng chống dịch Covid-19 và những hệ lụy của dịch bệnh.

 Dưới đây là giải đáp những thắc mắc của đa số thai phụ trong mùa dịch.

* Trong mùa dịch Covid-19, lịch khám thai có thay đổi nhiều không? Nếu bị giãn cách xã hội, nên thay đổi như thế nào cho phù hợp?

- Nhiều người lo lắng khi đi khám thai mùa dịch vì sợ lây nhiễm bệnh. Tuy nhiên, bệnh viện luôn đặt sự an toàn thai phụ và thai nhi lên hàng đầu như kiểm soát các quy trình khi thăm khám để hạn chế lây lan của dịch bệnh bằng cách tuân thủ 5K hoặc xét nghiệm sàng lọc Covid-19 khi cần thiết.

Thai phụ cần khám theo lịch hẹn của bác sĩ và thực hiện đúng các hướng dẫn. Tuy nhiên, có thể hạn chế đến bệnh viện bằng cách khám, tư vấn qua điện thoại hoặc các cuộc gọi video. Các bác sĩ sẵn sàng hướng dẫn một cách chi tiết nhất.

Lịch khám thai định kỳ thường chia theo quý I, II, III. Trong đó, giai đoạn quan trọng, không nên bỏ qua là khoảng 11 - 13 tuần 6 ngày, ngoài xem xét tình trạng thai kỳ, còn đo độ mờ da gáy, xét nghiệm máu phối hợp để sàng lọc các bệnh rối loạn nhiễm sắc thể của trẻ sơ sinh và tầm soát tiền sản giật sớm cũng như xét nghiệm lây truyền mẹ con để phát hiện các bất thường sớm trong thai kỳ.

thaicovid

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 21 Tháng 8 2021 14:23

"DOPING" CỦA THẦY THUỐC

  • PDF.

Ban Biên Tập - 

BS Lê Minh Khôi - Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM đang phụ trách Trung tâm Hồi sức Tích cực (ICU) tại Bệnh viện Quốc tế City. Ngày 12/8, anh đã chia sẻ thư tình nguyện của một nữ bác sĩ từ Quảng Nam. Bức thư đã gây xúc động mạnh, "truyền lửa" cho các bác sĩ trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19. Người nữ bác sĩ ấy là em - Bs Lê Thị Bảo Ngọc. Sáng ngày 18/8 em đã chia tay với các đồng nghiệp tại BVĐK Quảng Nam để lên đường vào tâm dịch TP Hồ Chí Minh.

Chúng tôi xin được đăng lại nội dung bức thư cảm động này.

chongdich

 

Dạ em chào anh Khôi,

Email này có thể hơi dài. Mong anh dành ít phút đọc ạ. Em cảm ơn anh.

Em là BS N, hiện đang công tác tại khoa … Bệnh viện Đa khoa ...

Tình hình là mấy hôm nay em tham gia thầy thuốc đồng hành và đọc status của anh, em ko ngủ được, kể cả ăn bữa ngon em cũng cảm giác mình bất nhẫn. Em muốn vào Sài Gòn, anh ạ.

Em có nhắn tin trao đổi với Hiệu, và gởi email trao đổi với Cúc, thông tin em được biết là nếu em vào đó, có khả năng em sẽ được làm việc chỗ Bệnh viện chỗ anh. Em chuyên ngành nội khoa, thời nội trú em cũng có đi hồi sức, đặt nội khí quản được, cài đặt máy thở được. Liệu em có thể vào đó không anh?

Có chút rắc rối là sáng nay em có lên xin giám đốc cho nghỉ việc ở bệnh viện 1-2 tháng. Em cũng sẵn sàng nghỉ không lương. Nhưng giám đốc em bảo đi phải có kế hoạch chứ không được bộc phát. Nhưng khi em nói là vô chỗ anh, thì bác giám đốc có vẻ đồng ý, bảo em viết đơn và nếu trong anh đồng ý tiếp nhận em thì sẽ cho phép em đi.

Anh ơi, em muốn đi quá. Sáng nay em nói chuyện với mẹ. Em nói là thời khắc này, em không thể ăn ngon mặc đẹp, đi làm 8 tiếng ngày về nhà bật điều hoà ngủ được. Em biết sự góp sức của em không là gì, chỉ rất bé, nhưng anh ơi, mỗi cái bé nhỏ mới thành cái lớn được phải không anh?

Anh ơi, anh có thể liên lạc với sếp em đảm bảo chuyện em được tiếp nhận chỗ anh được không ạ, sếp em là bác…, chồng cô … hay comment trên facebook anh ấy ạ. Anh bỏ chút thời gian ra nói với cô là nếu em vào, chỗ anh tiếp nhận là được ạ.

Em biết là phiền anh lắm, vì giờ anh đang rất bận. Nhưng anh giúp em với.

Em cảm ơn anh

Em BN.

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 18 Tháng 8 2021 20:45

Yểu tố nguy cơ và dự phòng nhiễm khuẩn vết mổ

  • PDF.

Bs Lê Thị Mỹ Thương - 

MỞ ĐẦU

Nhiễm khuẩn vết mổ (Surgical Site Infection) là một trong nhưng loại nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp, là những nhiễm khuẩn tại vị trí phẫu thuật trong thời gian từ khi mổ cho đến 30 ngày sau mổ với phẫu thuật không có cấy ghép và cho tới một năm sau mổ đối với phẫu thuật có cấy ghép bộ phận giả. NKVM làm tăng chi phí điều trị, kéo dài thời gian và bệnh tật cho bệnh nhân.

Tại Mỹ và một số nước Tây Âu, tỷ lệ NKVM thay đổi từ 2%-15% tùy theo loại phẫu thuât và chi phí phẫu thuật trung bình mỗi ngày 325 Euro. Năm 2011, khảo sát tại 183 bệnh viện ở Mỹ trong số 11.282 bệnh nhân phẫu thuật có 452 bệnh nhân NKVM liên quan đến chăm sóc y tế là 4,0%. Mỗi năm tại châu Âu có khoảng 29 triệu cas mổ với tỷ lệ NKVM là 2,6%. Bệnh nhân NKVM làm tăng ngày điều trị trung bình lên 6,5 ngày và tăng gấp đôi giá thành điều trị và chi phí cho NKVM khoảng 6,3 tỷ Euro. Patir và cộng sự ghi nhận cas nhiễm sau phẫu thuật thần kinh tại New Delhi, Ấn Độ là 15% và trong một nghiên cứu khác cũng tiến hành ở Ấn Độ cho thấy tỷ lệ NKVM sau phẫu thuật tim mạch là 18,8%. Tại châu Phi, cùng cận Shahara, tỷ lệ NKVM là 24%. Tại các bệnh viện khu vực Châu Á, như Ấn Độ, Thái Lan, NKVM gặp ở 8,8% - 17,7% bệnh nhân phẫu thuật. [5]

Tại Việt Nam, NKVM xảy ra ở 5-10% trong số khoảng 2 triệu người bệnh được phẫu thuật hàng năm, 90% thuộc vào NKVM sâu [1]. Ngoài việc tăng chi phí điều trị, NKVM còn tăng khả năng nhiễm khuẩn chéo và kháng thuốc, tăng tỷ lệ tái nhập viện . NKVM làm tăng đau đớn cho người bệnh, ảnh hưởng xấu đến tâm lý người nhà và người bệnh[3].

Xem tiếp tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 17 Tháng 8 2021 20:25

So sánh kết quả điều trị đau thần kinh tọa 4-12 tháng phẫu thuật với điều trị bảo tồn

  • PDF.

BS. Ngô Hữu Vân - 

90% bệnh nhân đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm thắt lưng cấp tính sẽ cải thiện với điều trị bảo tồn trong vòng 4 tháng kể từ ngày khởi phát triệu chứng. Một số nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên cho thấy đối với bệnh nhân (BN) bị đau thần kinh tọa cấp tính, phẫu thuật đem lại lợi ích về mặt ngắn hạn so với điều trị bảo tồn nhưng sau 6-12 tháng thì điều trị bằng phẫu thuật và bảo tồn đều cho kết quả tương tự nhau. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chưa trả lời được câu hỏi đối với những BN bị triệu chứng đau thần kinh tọa kéo dài hơn 3 tháng thì điều trị bảo tồn hay phẫu thuật, cách tiếp cận nào là tốt hơn, vì đa số các BN được chọn trong các nghiên cứu nói trên có triệu chứng trong khoảng thời gian ít hơn 3 tháng. Nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên để xem phẫu thuật lấy nhân đệm có tốt hơn so với điều trị bảo tồn ở BN có triệu chứng đau thần kinh tọa kéo dài 4-12 tháng do thoát vị đĩa đệm thắt lưng. Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên từ 2/2010 đến 8/2016.

Tiêu chuẩn chọn bệnh: BN tuổi 18-60, có bệnh lý rễ thần kinh một bên kéo dài 4-12 tháng và trên MRI có hình ảnh thoát vị đĩa đệm sau bên ở L4-L5 hoặc L5-S1, chèn ép rễ thần kinh tương ứng. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh lý rễ thần kinh do thoát vị đĩa đệm ở lổ liên hợp hoặc xa bên (far lateral), hẹp ống sống, dị dạng cột sống tại vị trí thoát vị, có tiền sử phẫu thuật trước đó tại tầng thoát vị, hoặc đang điều trị bằng tiêm corticoid ngoài màng cứng hoặc đang tập vật lý trị liệu. BN được chọn ngẫu nhiên vào nhóm phẫu thuật hoặc điều trị bảo tồn (sau khi BN ký giấy đồng ý tham gia nghiên cứu).

Điều trị bảo tồn bao gồm giáo dục cho bệnh nhân cách thực hiện các hoạt động chức năng hàng ngày, các bài tập, uống thuốc giảm đau, tập vật lý trị liệu. Ngoài ra, BN có thể được tiêm corticoid ngoài màng cứng. BN có thể được tiêm lần 2, lần 3 theo quyết định của bác sỹ, trên cơ sở sự đáp ứng của BN đối với lần tiêm trước. BN được bác sỹ vật lý trị liệu theo dõi, hướng dẫn và kê đơn cũng như đánh giá mức độ đáp ứng đối với điều trị mỗi 6 tuần trong thời gian ít nhất 6 tháng.

BN trong nhóm phẫu thuật được mổ lấy khối thoát vị bằng đường mổ mở thường quy hoặc đường mổ can thiệp tối thiểu. Không có bệnh nhân nào được mổ làm cứng (fusion) hoặc bắt phương tiện.

Kết quả điều trị thứ nhất (primary outcome) được đánh giá dựa trên sự cải thiện mức độ đau ở chân, đánh giá theo thang điểm của Visual Analogue Scale (VAS: điểm từ 1 đến 10, điểm càng cao thì càng đau) ở thời điểm 6 tháng sau khi đăng ký vào nghiên cứu. Kết quả điều trị thứ hai (secondary outcome) là mức độ đau lưng và chân dựa trên VAS; chỉ số Oswestry Disability Index, (ODI: điểm 0 đến 100, điểm càng cao thì mức độ tàn phế (disability) càng nặng); và chỉ số chất lượng cuộc sống được đánh giá vào thời điểm 6 tuần, 3 tháng, 6 tháng và 1 năm.

Kết quả

Trong thời gian từ 2010 đến 2016, có 790 BN được sàng lọc, trong đó có 128 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, mỗi nhóm có 64 BN. Trong số BN được phẫu thuật, thời giant rung bình từ khi được chọn ngẫu nhiên vào nhóm phẫu thuật đến khi được phẫu thuật là 3,1 tuần. Ở nhóm không phẫu thuật, 22 BN (34%) chuyển qua phẫu thuật sau thời gian trung bình 11 tháng kể từ khi đăng ký vào nhóm nghiên cứu. Mức độ đau chân ở nhóm phẫu thuật là 7,7 (theo thang điểm 1-10 của Visual Analogue Scale) và 8 ở nhóm điều trị bảo tồn. Kết quả theo dõi cho thấy, mức độ đau chân ở nhóm phẫu thuật là 2,8 và nhóm điều trị bảo tồn là 5,2 ở thời điểm 6 tháng sau điều trị (p<0,001). Sau 1 năm, mức độ đau ở chân là 2,6 ở nhóm phẫu thuật và 4,7 ở nhóm điều trị bảo tồn. Kết quả điều trị thứ hai bao gồm chỉ số ODI và đau lưng và chân ở thời điểm 12 tháng cũng cho kết quả theo chiều hướng tương tự kết quả điều trị thứ nhất (tức là nhóm phẫu thuật có kết quả giảm đau và chỉsố ODI tốt hơn).

Có 9 BN trong nhóm phẫu thuật có diến biến bất lợi sau phẫu thuật, trong đó nhiễm trùng nông vết mổ và xuất hiện đau thần kinh (neuropathic pain) là hay gặp nhất. Một BN ở nhóm phẫu thuật được phẫu thuật lại vì thoát vị đĩa đệm tái phát vào thời điểm 250 ngày sau mổ.

Kết luận

Nghiên cứu cho thấy vi phẫu lấy đĩa đệm cho kết quả tốt hơn điều trị bảo tồn về mức độ cải thiện triệu chứng đau ở BN bị đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm kéo dài trên 4 tháng ở thời điểm theo dõi 6 tháng.

Nguồn: https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMoa1912658… 

 

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 08 Tháng 8 2021 09:13

You are here Tin tức Y học thường thức