• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tin tức – sự kiện

Ảnh hưởng của tán huyết đến mẫu bệnh phẩm

  • PDF.

CN Nguyễn Thị Huyền Ngân- 

Tán huyết hay còn gọi là tan máu, máu vỡ hồng cầu, là một trong những trường hợp thường xuyên hay gặp nhất trong sự không phù hợp trước khi phân tích trong các phòng xét nghiệm. Điều đó có thể dẫn đến kết quả sai lầm, gây ảnh hưởng đến việc tư vấn kết quả xét nghiệm và sau đó là chăm sóc bệnh nhân.

Vậy tán huyết là gì? Tán huyết được định nghĩa là sự phóng thích các thành phần bên trong tế bào hồng cầu và các tế bào máu khác vào dịch ngoại bào và điều này gây ra bởi nhiều cơ chế.

Tán huyết có thể ở cơ thể sống là kết quả của các cơ chế sinh hóa, miễn dịch, sinh lý hoặc hóa học. Tán huyết phổ biến hơn là ở trong ống nghiệm do quá trình lấy và xử lý mẫu không đúng hoặc không thích hợp. Ngay cả khi tán huyết không thể thấy được, các thành phần tế bào vẫn có thể phóng thích vào huyết thanh/huyết tương

Phân loại :Tán huyết có thể xảy ra ở in vivo( trong cơ thể) và in vitro ( trong ống nghiệm). Tán huyết in vivo là kết quả của một số trường hợp và bệnh (tán huyết di truyền hoặc mắc phải), trong khi in vitro được kích hoạt bởi các quy trình không đúng hoặc xử lý sai trong quá trình thu thập bệnh phẩm. Tán huyết In vitro là điều không mong muốn nhất, ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả và độ tin cậy của xét nghiệm. Tán huyết in vitro là nguyên nhân hàng đầu gây ra sự từ chối mẫu cho cả bệnh nhân nội trú và bệnh nhân ngoại trú, cũng như các mẫu khẩn cấp và thường quy.

bpham

Xem tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 14 Tháng 1 2025 14:58

Nhân một trường hợp u sợi mạch mô mềm ở bệnh viện đa khoa Quảng Nam

  • PDF.

Ths.Bs. Nguyễn Đào Cẩm Tú - 

Tổng quan

U sợi mạch mô mềm (Angiofibroma of soft tissue – AFST) là một u lành tính mới được mô tả gần đây, thường phát hiện ở mô mềm chi dưới người lớn, tiến triển chậm và không đau. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy đây là một u lành tính và có tỷ lệ tái phát thấp. Tuy nhiên, do đặc điểm mô học đa dạng và giải phẫu phức tạp cũng như mức độ ít gặp của các khối u mô mềm, chúng thường không được chẩn đoán chính xác, đôi khi nhầm lẫn với các u ác tính có hình ảnh và lâm sàng tương tự. Nhân một trường hợp được chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện đa khoa Quảng Nam, chúng tôi muốn thảo luận và nhấn mạnh vai trò của chẩn đoán hình ảnh trong tiếp cận ban đầu AFST.

umem

Xem tiếp tại đây

 

Hội nghị tổng kết công tác xây dựng đảng năm 2024 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2025

  • PDF.

Vũ Thị Phương Thanh - 

Chiều ngày 09/01/2025, Đảng ủy Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác xây dựng đảng năm 2024 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2025. Đồng chí Võ Công Úc, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Quảng Nam đã đến tham dự chỉ đạo hội nghị.

Tại hội nghị, đồng chí Nguyễn Ngọc Văn Khoa, Phó Bí thư Đảng ủy đã trình bày dự thảo báo cáo tổng kết công tác xây dựng đảng năm 2024 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2025. Báo cáo đánh giá, làm rõ những kết quả đạt được trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Bệnh viện trên các nội dung: lãnh đạo công tác xây dựng đảng; công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị; lãnh đạo công tác đoàn thể. Đồng thời, báo cáo cũng chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm còn tồn tại, chủ yếu là chất lượng sinh hoạt chi bộ chưa cao; phát triển đảng chưa đạt chỉ tiêu được giao; thiếu thuốc, vật tư y tế và hóa chất phục vụ cho chuyên môn; chưa triển khai thực hiện bệnh án điện tử; báo cao nêu nguyên nhân để từ đó rút kinh nghiệm, phát huy ưu điểm, tìm biện pháp khắc phục hiệu quả.

2024hn1

Lần cập nhật cuối lúc Thứ sáu, 10 Tháng 1 2025 13:27

Đọc thêm...

Xử trí Migraine ở phụ nữ có thai

  • PDF.

Bs Trần Sang - 

Nguyên nhân gây ra đau đầu migraine khi mang thai

Thay đổi nội tiết trong thai kỳ

Khoảng 15 đến 20 phần trăm phụ nữ mang thai bị đau đầu migraine. Hơn một nửa số phụ nữ nhận thấy đau đầu migraine của họ ít xảy ra hơn trong vài tháng cuối của thai kỳ. Tuy nhiên có thể trầm trọng hơn sau khi sinh, trong thời kỳ hậu sản. Mặc dù đau đầu migraine có thể gây ra những cơn đau dữ dội cho mẹ nhưng không gây nguy hiểm cho thai nhi đang phát triển.

Các phụ nữ bị migraine trong thai kỳ thường xuyên nhất là trong ba tháng đầu của thai kỳ, khi mức độ hormone, bao gồm cả estrogen, vẫn chưa ổn định. Thay đổi nội tiết tố là nguyên nhân phổ biến khiến phụ nữ bi migraine. Sự cải thiện này có thể là do sự gia tăng estrogen và các hormone giảm đau tự nhiên (endorphin). Các hormone này cao hơn nhiều lần trong thời kỳ mang thai và mặc dù việc giảm các cơn  migraine có thể kéo dài trong cả thai kỳ, nhưng mức độ này sẽ ổn định trở lại sau khi sinh, thông thường cho phép các cơn migraine quay trở lại. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thấy sự cải thiện đau đầu migraine của mình. Một số phụ nữ bị migraine tồi tệ hơn khi mang thai mặc dù trường hợp này rất hiếm.

Xem tiếp tại đây

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 07 Tháng 1 2025 18:26

Nhóm thuốc điều trị đái tháo đường SGLT2i và khả năng giảm nhu cầu sử dụng thuốc trên bệnh nhân gút

  • PDF.

Bs Lê Thị Hậu

Việc sử dụng các thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển natri-glucose (SGLT2i) đã làm giảm nhu cầu sử dụng liệu pháp hạ urat và liệu pháp điều trị cơn gút ở những người mắc cả bệnh tiểu đường type 2 và gút, theo nghiên cứu mới đây đã phát hiện.

Gút là bệnh viêm khớp phổ biến với tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong do gút đã tăng trên toàn thế giới trong nhiều thập kỷ. Mặc dù có một số phác đồ điều trị hiệu quả, nhiều bệnh nhân mắc bệnh gút vẫn tiếp tục bị các cơn gút tái phát, gây ra cơn đau dữ dội và bệnh tật, và ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày. Gút cũng mang gánh nặng bệnh đi kèm đáng kể với các tình trạng tim mạch-chuyển hóa. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã báo cáo rằng bệnh gút làm tăng nguy cơ tử vong do bệnh thận và tim mạch, và khoảng cách tử vong giữa bệnh nhân mắc bệnh gút và dân số nói chung vẫn chưa được cải thiện.

Thuốc SGLT2i dùng để điều trị đái tháo đường type 2, làm giảm các biến cố tim mạch bất lợi chính và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở những người mắc hoặc không mắc bệnh tiểu đường. Các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng SGLT2i làm giảm nồng độ urat trong huyết thanh và giảm nguy cơ mắc bệnh gút mới mắc. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào xem xét cụ thể mối liên quan của SGLT2i với nguy cơ bùng phát bệnh gút tái phát và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở những bệnh nhân mắc bệnh gút. Nghiên cứu gần đây ở Anh (1) theo dõi dựa trên dân số để so sánh nguy cơ tái phát các đợt bùng phát bệnh gút và tử vong do mọi nguyên nhân giữa những bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng SGLT2i và những bệnh nhân bắt đầu dùng 2 loại thuốc chống đái tháo đường khác (thuốc chủ vận thụ thể peptide-1 giống glucagon [GLP-1 RA] hoặc thuốc ức chế dipeptidyl peptidase-4 [DPP-4i]) ở những bệnh nhân mắc bệnh gút và đái tháo đường týp 2.

Đọc thêm...

You are here Tin tức